Trích sách TÌNH THƠ BẠN THƠ 1/ Nguyễn Văn Hòa
3. Y BAN
“BẤT KHAM” - NHỮNG LÁT CẮT CỦA CUỘC SỐNG
(Nhân đọc tập thơ Bất kham của Y Ban, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2018)
Lâu nay, trên văn đàn người ta biết đến Y Ban là một nhà văn với những tác phẩm làm xôn xao dư luận, trở thành một hiện tượng khá nổi bật của nền văn học nữ đương đại. Chị là một trong những cây bút văn xuôi cá tính, giàu nội lực, viết đều, viết nhiều. Tác phẩm nào của Y Ban ra đời cũng nhận được sự chào đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc, sự đánh giá xác đáng của giới nghiên cứu phê bình cả trong và ngoài nước.
1.Người đàn bà có ma
lực (tập truyện ngắn,
1993) 2. Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm (tập truyện ngắn, 1995) 3. Vùng sáng ký ức (tập truyện ngắn, 1996) 4. Truyện ngắn Y Ban (tập truyện ngắn, 1998) 5. Miếu hoang (tập truyện ngắn, 2000) 6. Cuộc
phiêu lưu trên dòng nước lũ (truyện vừa viết cho trẻ em, 2000) 7. Cẩm Cù (tập truyện ngắn, 2002) 8. Cưới chợ (tập truyện ngắn, 2003) 9. Đàn bà xấu thì không có quà (tiểu thuyết, 2004) 10. Thần cây đa và tôi (truyện vừa, 2004) 11. I am đàn bà (truyện ngắn, 2006) 12. Xuân từ chiều (tiểu thuyết, 2008) 13. Hành trình tờ tiền giả (tập truyện ngắn, 2010) ...
Điều lạ và bất ngờ,
năm 2018 nhà văn Y Ban đã trình làng tập thơ đầu tay Bất kham. Ngay
tên tập thơ đã gây đã gây sự tò mò đối với người đọc. Bất kham là gì? Sao lại
Bất kham? Bất kham điều gì? Nội dung của tập thơ Bất kham, Y Ban muốn chuyển tải bức thông điệp
gì?...
Nếu như ở thể loại
truyện ngắn, tiểu thuyết Y Ban có thế mạnh nói về thân phận đàn bà với những
vấn đề tế nhị mà người ta ngại nói, khó nói. Thì ở tập thơ đầu tay này Y Ban
lại mạnh dạn phản ánh những sự thật của đời sống một cách tự nhiên, không hề
che giấu, những nỗi đau của kiếp người lần lượt đi vào thơ chị như sự trải
lòng. Không biết Y Ban cố tình hay do thói quen mà chị làm thơ như kiểu viết
văn. Mạch thơ như một câu chuyện kể. Chị làm thơ mọi lúc, mọi nơi, thậm chí khi
rửa bát cũng làm thơ. Thơ với chị như một mạch ngầm, tiềm ẩn. Do vậy, đọc thơ Y
Ban, người đọc nhận thấy chị không cầu kỳ, không chú trọng đẽo gọt câu chữ,
không nặng về kỹ thuật, không làm dáng, không ngoa ngôn... Thơ chị có sự bình
dị, tự nhiên, đôi lúc như là lời thủ thỉ tâm sự rất mực gần gũi, đời thường.
Nhưng đọc kỹ, thơ chị nhiều ẩn ý, giàu sức liên tưởng. Tôi cho rằng đó lại là
cái đáng yêu, tạo nên hồn cốt và nét riêng của một nhà văn đi viết thơ. Thơ
viết về tình yêu, miếng ăn, nỗi khổ, sự mất tự do, cái chết, nỗi buồn... Tất cả
những điều đó tràn ngập trong thơ chị.
Tên những bài thơ
thoạt nghe tưởng bình thường nhưng đọc hết bài gợi nên sự ám ảnh, day
dứt. Thơ viết lúc rửa bát, Nghi lễ trước bữa ăn, Tự do, Tị nạn, Ơi
những chú ngựa bất kham, Ăn mày, Quê nội nhìn từ bãi tha ma, Những cây tầm gửi,
Thời đại khò, Khúc bi ca về rượu, Tự cầm tù ta, Lửa trong tay đàn bà, Hãy khóc
thương tàu lá chuối, Giả - chân, Hãy lợi dụng tôi đi, Xin hãy mở khóa tim con...
Thơ thoát ra tự nhiên, tự nhiên nhưng là sự tự nhiên chua xót, có lúc tỏ ra
dửng dưng, có lúc bàng hoàng, có lúc như là tiếng kêu thương xé ruột. Thơ Y Ban
ngổn ngang những vấn đề nhức nhối, liên quan trực tiếp đến sự sống của con
người thời hiện đại. Trước cái chết của 9 em học sinh trên sông Trà Khúc, Y Ban
đặt ra nhiều câu hỏi. Này kẻ láo xược/ Trăm con trai của ta đã chết hết
cả rồi/ Chỉ còn lại sản phẩm lỗi của các người/ -Vnen là cái gì?/ Thông tư 30
là cái chi?/ Đổi mới cải cách ư?/ Khi lũ trẻ đã chết/ Đồng phục chúng để lại trên
bờ/ Những cuốn vở chúng để lại trên bờ.... À ơi, tôi hát ru nỗi đau/ Hãy đừng
ngủ yên dưới dòng sông ấy/ Hãy cất lên thành bài ca buổi sớm/ Để đánh thức sự u
mê/ Vì quyền lực/ Vì tiền bạc/ Vì lợi ích nhóm/ Hỏi còn lại gì/ Khi các em đã
chết thế kia? Một xã hội đã thực sự văn minh, tốt đẹp như những gì ta
vẫn nghe ra rả trên báo đài chưa? Nơi nào, ngõ ngách nào chị cũng thấy nhan
nhản cái ác, cái xấu bủa vây. Y Ban khẩn thiết đề nghị: Thế gian ơi đêm nay
đừng giao hợp/ Để chặn vòng luân hồi của kẻ ác nhan nhản quanh ta/ Và ta nữa mẹ
ơi đừng cho con mượn dạ/ Nào kiếp người này có ích gì đâu/ Chữ với nghĩa đã
nhuốm mùi tiền bạc/ Những tờ tiền mua cả sự tự do (Thơ viết lúc rửa bát).
Hiện thực xã hội với
bao điều xấu xa, bất công, ngang trái đã và đang xảy ra làm cho Y Ban ngao
ngán, mất niềm tin. Bằng cấp, học hành, bệnh thành tích, sự dối trá, mua bán
điểm chác; sự tha hóa và xuống cấp đạo đức, đồng tiền có giá trị vạn năng... Do
vậy, Y Ban không muốn những sinh linh nhỏ ra đời nữa, vì nếu ra đời sẽ có thêm
nhiều những cái xấu, cái ác nữa. Hiện tại chị đã choáng, nếu sinh thêm thì
không biết tương lai sẽ đi về đâu? Chị bất lực trước cuộc đời: Ta đã
từng thờ ơ nhìn hàng nghìn chiếc xe tang/ ngang qua cuộc đời/ Sáng nay chiếc xe
tang chở nỗi đau ta găm từng mũi/ kim vào ngực.
Và rồi chị nghĩ về sự
tự do vĩnh cửu trong cái chết: Và một ngày kia trong chiếc xe tang ta
tự do vĩnh cửu (Tự do).
Nghi lễ trước bữa ăn đặt ra nhiều câu hỏi, những câu hỏi đó
cũng chính là lời kêu thương thảng thốt cất lên từ kiếp sống khổ đau, thê thảm.
Tác giả đã 5 lần đề cập đến những giọt “nước mắt”. Rồi đây, chính những đứa
trẻ, những em bé mới chào đời này phải đối mặt với bao thách thức, phải mang
vác, phải oằn mình gánh gồng trả nợ. Bởi vì: Người ta vay/ Để viết nên
những dự án trăm tỷ nghìn tỷ/ Không mang lại lợi ích cho dân/ Và chia chác cho
nhau/ Gọi là tham nhũng/ Người ta vay/ Gọi là nợ công/ Để chia đều cho mỗi
người dân/ Vừa có mặt trên đời em đã vác trên lưng món nợ/ Em bé ơi/ Nước mắt
của em/ Đã như một nghi lễ/ Trước bữa ăn/ Để nghĩ về một món nợ tương lai.
Đọc bài thơ Tị
nạn mà rưng rưng nước mắt. Khóc vì đó là tấn bi kịch khi phải tị nạn,
tị nạn ở xứ người vì chiến tranh và nghèo đói. Đau xót hơn gấp bội phần là “Tôi
phải tị nạn lương tâm/ Tôi cũng đành câm lặng như em bé”. Muốn nói thật
nhiều, gào thét thật nhiều nhưng phải đành câm lặng. Bởi “tôi” đã bị cấm ngăn
và không có quyền lên tiếng, “tôi” đã phải tị nạn lương tâm ngay trên chính quê
hương mình. Người mẹ bồng con đứng đợi chồng hằng đêm/ Chồng nhậu quên
ngày quên tháng/ Quên cả vợ con …. Đêm đã tàn/ Mẹ chờ con trai/ Như cha con
cũng thường vùi đầu vào rượu (Khúc bi ca về rượu). Đó là đại bi kịch của những gia đình có chồng
nghiện rượu, con nghiện rượu rồi biết bao hệ lụy liên tiếp xảy ra. Người đàn bà
phải gánh chịu tất cả những nhọc nhằn, tủi khổ. Con thơ mất bố, vợ trẻ
vay tiền làm tang chồng/ Đêm đã hết, chồng không về, trong bệnh viện, chấn
thương sọ não, vợ phải vay tiền cứu chồng thoát khỏi tử thần, chồng không chết
mà trở thành tàn phế. Rồi tiếp tục người vợ phải chạy vạy ngược xuôi để nuôi
chồng./ Đêm đã hết, chồng không về, trong bệnh viện, Gan thận bị phá hủy, Bán
nhà cứu chồng, Mấy mẹ con tá túc nhờ bếp nhà hàng xóm... Hết chồng làm
đau khổ, đến lượt con trai, cũng vì rượu mà đến với thần chết. Có nỗi đau nào
hơn nỗi đau này không? Ở cuối bài thơ là một câu hỏi tu từ, câu hỏi không cần
lời giải đáp, câu hỏi như cắt cứa vào tim óc người đọc. Hỏi không chỉ hôm nay
mà cho cả tương lai? Dân tộc tôi đang hoại tử dần vì rượu/ Nếu có thể
chắt nỗi đau từ trái tim người mẹ/ Để ngâm rượu mà cai được không con?
Lời tự sự trong
bài Ơi những chú ngựa bất kham là những lời gan ruột của Y Ban
nói với đứa con trai, và cả những điều nghịch lý, bất công đang xảy ra ở ngoài
xã hội. Lời tâm sự của mẹ với con trai đó là câu chuyện dài, khi Y Ban đã nhìn
nhận và thấu hiểu lẽ đời và thời cuộc. Những lời của chị nói với con trai,
những sự thật trớ trêu đang diễn bên ngoài xã hội làm trái tim đa cảm của chị
thắt lại. Câu chuyện về việc đi học thêm của con trai Y Ban, cuộc đối thoại
giữa chị với đứa con, việc chị viết đơn đề nghị mở lớp dạy thêm cho con mình.
Sau đó chị dằn vặt, suy nghĩ... Y Ban lại nghiệm ra những triết lý cho riêng
mình. Tôi ấn tượng và quý chị ở chỗ, chị là một người mẹ yêu con, thương con,
hiểu con, không tạo áp lực cho con, chị biết mình biết người, không mơ ước xa
vời viễn vông. Bởi chị nhận thức được thực trạng xã hội: Mẹ không thể
nói với con/ cái kiềng ba chân như người ta nói thế/ nhà trường, gia đình, xã
hội/ cập kênh đến hàng nghìn chỗ lệch/ mẹ làm sao kê cho bằng/ Giá khi đó mẹ cứ
nói thẳng với con mọi điều mẹ nghĩ/ rằng con ơi mẹ không mơ mộng con trai của
mẹ được/ thành nhà toán học như Ngô Bảo Châu hay anh hùng/ Phạm Tuân bay vào vũ
trụ/ Sự mơ mộng quá xa xỉ/ nên mẹ chỉ mơ mộng con thành người đàn ông/ chăm chỉ
lao động/ dám làm dám chịu về mọi hành vi lời nói của mình. Mơ ước về đứa
con trai của chị giản dị mà cao thượng làm sao! Phải chăng xã hội thời chị đang
sống có quá nhiều những cạm bẫy, dối lừa, bất an, mất niềm tin đến vậy? Ơi
những chú ngựa bất kham có thể xem là bài thơ hay nhất của tập thơ
này. Y Ban đã khéo dẫn dắt từ câu chuyện chị nói với đứa con trai, rộng ra là
nói đến nhiều người, nhiều vấn đề mang tính thời sự; gây sự chú ý và quan tâm
của cả cộng đồng xã hội.
Bất kham với 24 bài, đó là những lát cắt của đời
sống hiện đại. Những sự thật đáng buồn mà Y Ban chứng kiến, có lúc chị lại là
người trong cuộc. Hơn ai hết, Y Ban nhìn đời, nhìn người bằng cảm quan của một
người nghệ sĩ đã đi qua những thăng trầm, bão giông của cuộc đời và thời cuộc.
Sự thức nhận của một người đàn bà từng trải, cá tính. Tất cả đó chính là bức
tranh thật của cuộc đời. Ở đó, Y Ban sâu sắc nhận ra những Giả - chân, những
nghịch lý, những thủ đoạn, những bi hài, những đau thương và cả sự cam chịu một
cách gượng ép, bất đắc dĩ... Ở đó là nỗi bất hạnh, sự khốn cùng của kiếp người,
của thời đại mà chị đang sống. Y Ban chỉ biết “khóc - cười” trong những lời nỉ
non khi những sự thật lẽ ra không có, không xảy ra, không tồn tại ở nơi gọi là
thiên đường, nơi được coi là tốt đẹp, bình đẳng, người với người sống để yêu
thương nhau, không có thù hằn, không có bất công ngang trái. Ấy vậy mà biết bao
nỗi đau khổ lại chất chồng lên người dân. Mọi thứ đã thay đổi, tất cả những gì
tốt đẹp cũng chỉ là quá khứ. Chẳng hạn ở chương VI trong bài Ơi những
chú ngựa bất kham là một minh chứng: Bờ xôi ruộng mật/ cánh
đồng xưa thẳng cánh cò bay/ lúa vào thì con gái/ hương thơm cứ vướng chân người
đi/ lỗi bước/ Hồn thơ thới trải vào ánh xanh/ Khi lúa chín/ cánh đồng vàng rực/
nối với chân trời/ Người nông dân hân hoan/ Nụ cười rạng rỡ trên gương mặt sạm
đen nắng gió/ người nông dân còn đồng ruộng/ thì không bao giờ sợ đói/ Từ ngàn
đời, niềm tin đó đã đóng đanh/ vào trái tim con người/ Từ cánh đồng nền văn
minh lúa nước ra đời/ ca dao cổ tích/ Chiếu chèo rộn rã sân đình/ Chú tễu cười
váng dưới ao/ sừng sững bước vào nền văn minh nhân loại/ Sao cứ phải hiện đại
hóa công nghiệp hóa/ Sao cứ phải thành công nhân/ Người công nhân vô sản. Một quá khứ đẹp, trong lành, hồn hậu,
đáng yêu, đáng sống. Nhưng cuộc sống hiện đại “công nghiệp hóa - hiện đại hóa”
đã làm thay đổi hoàn toàn: Dự án đến/ Đồng ruộng bị bức tử dưới lớp
cát/ Đồng ruộng cầu cứu người nông dân/ Bỗng tim mẹ nhói đau như vừa bị trúng
đạn/ Khi mẹ nhìn thấy cầm dùi cui là bàn tay con trai
Bao câu hỏi, bao sự
đau đớn, chua chát, cả sự vật vã đầy hoài nghi của Y Ban: Một người làm
quan cả họ được nhờ/ Mẹ có cần nhờ vả gì ở một ông quan?/ Khi đôi tay của mẹ đã
làm lụng để kiếm đủ cái ăn/ cái mặc/ Mẹ còn để dành cho ông quan lương thiện
khi thành/ thứ dân/ mẹ chỉ nhờ con một điều/ con hãy là một ông quan lương
thiện. Đó là bản lĩnh, nghĩa nghĩa khí của một người công dân chân
chính, thẳng ngay và trên hết là tấm lòng của một người mẹ nhân ái, bao dung
dành cho đứa con trai. Dù con có thế nào đi chăng nữa mẹ vẫn yêu con như mẹ đã
từng yêu con. Bởi chị đã nếm trải, chị đã nhận thấu, chị đã đau nỗi đau chung,
lẫn nỗi niềm riêng của cuộc đời, cuộc người này. Y Ban có cái nhìn biện chứng
đầy nhân văn, nhân ái. Mẹ tha thứ cho con/ Thời tao loạn/ Mẹ không có
quyền lựa chọn/ Mẹ phải biết chấp nhận/ Cả thiên thần và ác quỉ/ mượn thân xác
mẹ để làm người/ Để mẹ yêu cả phần người/ phần thiên thần và ác quỉ...
Thơ Y Ban thể hiện rõ
nét cá tính của một người đàn bà bộc trực, dám nói thẳng, nói thật những điều
mắt thấy, tai nghe, những vấn đề gai góc của đời sống xã hội. Chị quan tâm đặc
biệt đến thế hệ trẻ, đến thân phận đàn bà, đến những số phận bất hạnh, những
kiếp người bé mọn trong cõi nhân sinh và cả những nghịch lý, bất công đang tồn
tại. Sự tự thức và dám nói những gì mình nghe - thấy - biết đó là nghĩa khí,
cốt cách, bản lĩnh của người cầm bút chân chính đáng trọng.
VANDANBNN trích sách/ gt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét