" Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu" xuất phát từ bài thơ đầu tiên của Kinh Thi thuộc Tứ Thư Ngũ Kinh của Nho gia, nằm trong thiên Quan thư, chương thứ nhất.
Quan thư
Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Dịch nghĩa là:
Đôi chim thư cưu hót họa nghe quan quan,
Ở trên cồn bên sông.
Người thục nữ u nhàn,
Phải là lứa tốt của bực quân tử.
Dịch thơ:
Quan quan kìa tiếng thư cưu,
Bên cồn hót họa cùng nhau vang dầy.
U nhàn thục nữ thế này,
Xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên.
Chương thứ nhất nói riêng, và thiên Quan thư nói chung, nếu đặt
riêng lẻ khỏi Kinh Thi thì hẳn là sẽ không ít người nghĩ rằng nó nói về tình
yêu nam nữ phàm tục thông thường. Tuy nhiên đặt trong toàn bộ Kinh Thi thì
người ta mới hiểu được thiên Quan thư này một cách trọn vẹn.
Từ toàn bộ nội dung Kinh Thi mà xét, thì chương này có nguồn gốc
như sau:
“Quân tử” trong bài là chỉ vua Văn Vương nhà Chu. Vua sinh có
thánh đức, nên cần tuyển chọn người vợ trinh thục để phối với bậc chí tôn, làm
chủ tế tông miếu.
Từ “nữ” trong bài thơ là con gái chưa gả chồng, ý nói nàng Thái
Tự, vợ vua Văn vương, lúc còn ở nhà với cha mẹ. Nàng Thái Tự rất mực trinh thục
không thay tiết tháo, dục vọng không lẫn vào nghi dung, ý vui riêng không hề lộ
ra cử chỉ.
"Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu" nghĩa là gì?
“Hảo” là đẹp lành, “Cầu” nghĩa là đôi lứa. Những người trong
cung, lúc nàng Thái Tự mới đến, thấy nàng có đức hạnh u tịch nhàn nhã và trinh
chuyên, bèn làm bài thơ này rằng: Kìa đôi chim thư cưu nghe hót quan quan, đang
ứng họa với nhau ở trên cồn bên sông. Người thục nữ yểu điệu nầy há không phải
là bạn lứa tốt của bậc quân tử Văn vương hay sao?
Đó là có ý nói nàng Thái Tự và vua Văn vương cùng hòa vui mà
cung kính lẫn nhau, cũng như tình chí thiết đậm đà mà lúc nào cũng giữ gìn cách
biệt của đôi chim thư cưu vậy.
“Thư cưu” là loài chim nước, lại có một tên nữa là vương thư,
hình trạng giống như chim phù y, trong khoảng Trường giang và sông Hoài thì có
chim ấy. Chim nầy sống có đôi nhất định mà không hề lẫn lộn. Hai con thường lội
chung mà không lả lơi, cho nên sách cổ nói rằng: đôi chim thư cưu tình ý chí
thiết khăn vó đậm đà, nhưng lúc nào cũng giữ gìn cách biệt. Sách Liệt nữ truyện
cho là người ta chưa từng thấy chim thư cưu sống dư cặp hay sống lẻ loi, là vì
tính nó như thế.
“Quan quan” là tiếng chim trống chim mái ứng họa nhau, ý chỉ tâm
ý tương thông, tri âm tri kỷ.
Như vậy chương thứ nhất của thiên Quan thư tỏ rõ cho hậu nhân
rất nhiều vấn đề trong hôn nhân. Đó là cái đức của người nữ cần trinh thục, u
nhã; đức của người nam cần là bậc quân tử; dẫu là trong hôn nhân thì nam nữ
cũng rất mực giữ gìn, không lả lơi, buông thả; có vậy mới đạt được phu xướng
phụ tùy, tâm ý tương thông, tri âm tri kỷ.
Vậy mới thấy rằng “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” của cổ
nhân so với quan niệm “lãng mạn” ngày nay thì quả là khác rất xa.
Khổng tử nói rằng: “Thiên Quan thư vui mà không dâm, buồn mà
không thương tâm”. Mạnh Tử đã khảo luận Kinh Thi, lấy thiên Quan thư làm đầu,
nhấn mạnh vào cái đức của nàng Thái Tự. Tại sao thiên Quan thư lại quan trọng
đến như vậy?
Văn vương trằn trọc bồi hồi
Chương thứ hai:
Sâm si hạnh thái,
Tả hữu lưu chi.
Yểu điệu thục nữ,
Ngộ mỵ cầu chi.
Cầu chi bất đắc,
Ngộ mỵ tư bặc.
Du tai! du tai!
Triển chuyển phản trắc.
Dịch nghĩa:
Rau hạnh cọng dài cọng ngắn không đều nhau,
Phải thuận theo dòng nước sang bên tả bên hữu chọn hái.
Người thục nữ u nhàn ấy,
Khi thức khi ngủ đều lo cầu cho được nàng.
Nếu cầu mà không được,
Thì khi thức khi ngủ đều tưởng nhớ.
Tưởng nhớ xa xôi thay! Tưởng nhớ xa xôi thay!
Vua cứ lăn qua trở lại mãi nằm không yên giấc.
Dịch thơ:
So le rau hạnh lơ thơ,
Hái theo dòng nước ven bờ đôi bên.
U nhàn thục nữ chính chuyên,
Nhớ khi thức ngủ triền miên chẳng rời.
Nếu cầu mà chẳng được người,
Khi mơ khi tỉnh bồi hồi nhớ thương.
Xa xôi trông nhớ đêm trường,
Chiếc thân trằn trọc trên giường nào yên.
Chương thứ hai này vẫn có cấu trúc như chương thứ nhất. Trước
tiên nêu lên sự vật, rồi từ đó mà ví von với hoàn cảnh của Văn vương. Vào lúc
chưa cầu được nàng Thái Tự, Văn vương trằn trọc không sao ngủ được, hết xoay
bên này lại xoay bên kia, cũng như người đi hái rau hạnh ở hai bên dòng nước
hết qua bên tả lại qua bên hữu vậy. Trằn trọc ấy lại không phải vì tình cảm bứt
rứt, dục vọng không yên, mà bởi vì nàng Thái Tự với đức hạnh ấy trên đời không
thường có vậy. Nếu cầu nàng mà không được thì không có ai phối, hợp với vua, để
thành việc nội trị hoàn mỹ. Cho nên vua lo nghĩ sâu xa không xiết đến thế ấy.
Đó chính là “buồn mà không thương tâm” (Khổng Tử) vậy.
Niềm sung sướng của Văn vương
Chương thứ ba:
Sâm si hạnh thái,
Tả hữu thể chi.
Yểu điệu thục nữ,
Cầm sắt hữu chi.
Sâm si hạnh thái,
Tả hữu mạo chi.
Yểu điệu thục nữ,
Chung cổ lạc chi.
Dịch nghĩa:
Rau hạnh so le không đều nhau,
Phải thuận theo dòng nước sang bên tả bên hữu chọn hái lấy.
Người thục nữ u nhàn ấy,
Phải đánh đàn cầm đàn sắt mà thân ái nàng.
Rau hạnh cọng dài cọng ngắn không đều nhau,
Phải nấu chín mà dâng lên ở hai bên.
Người thục nữ u nhàn ấy,
Phải khua chuông đánh trống để thể hiện điều mừng vui.
Dịch thơ:
Vắn dài rau hạnh bên sông,
Kiếm tìm mà hái theo dòng đôi bên.
Được người thục nữ chính chuyên,
Mến nàng, cầm sắt đánh lên vang dầy.
Bên sông rau hạnh vắn dài,
Đem về nấu chín mà bầy hai bên.
Được người thục nữ chính chuyên,
Để nàng vui thích, vang rền trống chuông.
Cầu được nàng Thái Tự rồi, thì Văn vương vui mừng khôn xiết. Đó
lại không phải bởi vì thỏa được cái dục rồi mà hoan hỉ, mà bởi vì có được người
đức hạnh giúp vua nội trị, nên vua tỏ ý mừng vui khôn xiết. Vậy nên mới lấy cầm
sắt tâm giao, mới lấy trống chuông đánh lên mà tỏ nỗi lòng. Dẫu mừng vui thì
vẫn thanh cao với rau hạnh. Đây chẳng giống như Khổng Tử nói, “vui mà không
dâm” hay sao?
Thiên Quan thư này tỏ rõ trong hôn nhân: đức hạnh như chim thư
cưu, tình chí thiết đậm đà mà vẫn giữ gìn cách biệt; khi cầu người thục nữ thì
cũng là thức ngủ lăn qua trở lại vì lo không có được người đức hạnh dường ấy;
đánh đàn cầm đàn sắt, khua chuông đánh trống, niềm vui buồn đã tột bực mà đều
không quá khuôn khổ phép tắc. Hơn thế nữa, ẩn đằng sau những vui buồn đó lại là
tâm tư của Văn vương, lo không có người đức hạnh để trợ giúp mình nội trị, sâu
xa hơn cũng chính là lo cho con dân, cho quốc thổ. Từ đó có thể thấy sự đoan
chính của cổ nhân trong quá trình tìm hiểu lẫn trong hôn nhân.
Khuông Hành nói rằng: “Phối hợp thành vợ chồng là mối đầu của
việc phồn sinh của dân chúng, là nguồn cội của vạn phúc. Nghi lễ của hôn nhân
được chính đáng thì về sau phẩm vật thoả thuận và thiên mệnh mới hoàn toàn.”
Điều này so với cách nói ngày nay, cho rằng gia đình là tế bào của xã hội, cũng
là đi trước nhiều lắm. Bởi vì cổ nhân nói về “đức hạnh” của hôn nhân, còn người
hiện đại chỉ biết nói về tầm quan trọng của hai chữ “gia đình”.
Mạnh Tử đã khảo luận Kinh Thi, lấy thiên Quan thư làm đầu, ý nói
rằng trên hơn hết là bực cha mẹ dân, đức hạnh của bà Hậu phi phu nhân nếu chẳng
ngang bằng với trời đất, thì không lấy gì mà thờ phụng thần linh để điều hoà sự
thích nghi của vạn vật. Từ đời trước trở lại, việc hưng phế của ba đời Hạ,
Thương, Chu chưa có bao giờ không do ở đấy vậy. Điều Mạnh Tử nói lại càng cho
thấy sự quan trọng của người phụ nữ trong Nho gia, điều mà không phải ai cũng
hiểu cho được cặn kẽ.
theo cuốn Kinh Thi tập truyện, NXB Đà Nẵng, 2003.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét