Thơ. Mười lăm khúc
CONTHUYỂNTRƯƠNGCHI
CONTHUYỂNTRƯƠNGCHI
Người ta thường nói: Thế giới thi ca. Thế giới thi ca của Nguyễn Du, Thế giới thi ca của Lý Bạch, thế giới thi ca của Puskin..Không rõ hàm nghĩa của chữ “thế giới’ là những gì, nhưng tôi ghi nhận hai nghĩa: Thơ ( thơ nói chung hay thơ của một thi sĩ) là một thế giới, tức là có những cái riêng của nó, nói khác, thế giới khác không có. Khi Crostop Cô Lông tìm ra Mỹ Châu, người thời ấy gọi là Tân Thế Giới, vì ở đó có những thứ khác với cái thế giới mà người ta đã biết. Nghĩa thứ hai, nó là cả một thế giới, nghĩa là phong phú, đủ cho nó tồn tại, không cần sự viện trợ của đâu khác.
Đọc thơ Nguyễn
Nguyên Bảy, tôi nhớ tới cái thành ngữ thế giới thi ca và tự nhủ đừng quên: Mỗi
tập thơ là một thế giới thi ca. Phải tìm hiểu, phải cảm thông với Nó, là Nó chứ
đừng lấy cái khác đo lường nó, bình giải nó.
Đương nhiên là
có những nguyên lý, những định nghĩa. Nhưng đừng tuyệt đối hóa chúng. Vì vận
dụng cứng nhắc chúng, có khi người ta hiểu sai hoàn toàn một sự vật, một con
người. Thí dụ, cuối thế kỷ trước có một viện sĩ hàn lâm nước Pháp Juyn Lơ mét
(Jules Lemaitre) sang đi xem Hát Bội. Ông ta kêu quá trời, viết một bài phê
bình xỉ vả hết lời, mà nếu đọc ta không thể không phẫn nộ. Bài đó chỉ chứng tỏ
ông ta ngu, chỉ biết những nguyên lý của kịch Phương Tây, cho thế là tất cả và
từ sự hạn hẹp về hiểu biết ông phủ nhận giá trị nghệ thuật của hát Bội.
Kìa thế cục
như in giấc mộng/ Máy huyền vi mở đóng khôn lường/ Vẻ chi ăn uống sự thường/
Cũng còn Tiền định khá thương lọ là/ Đòi những kẻ thiên ma bách chiết/ Hình thì
còn bụng chết đòi nau/ Thảo nào chỉ mới chôn nhau/ Đã mang tiếng khóc ban đầu
mà ra/ Khóc vì nỗi..
Quả thật trong
cuộc sống thực tiễn người ta thường sống theo những nguyên lý, theo những ước
lệ xã hội như học sinh khi làm bài Toán, bài Lý thì nghĩ ngay đến những công
thức. Đó là sự tự nhiên. Tôi cũng vậy thôi. Đọc thơ Nguyễn Nguyên Bảy, có mấy
bài tôi thấy là lý luận, lập luận, Tôi nghĩ: Thơ thì không lý luận, lý luận thì
không thơ. Nhưng tôi lại tự hỏi: Thế Cung oán ngâm khúc thì sao?/ Lý luận
nhiều quá. Nhưng ai bảo Cung oán ngâm khúc không thơ ?
Lại có lúc tôi
thấy tác giả sử dụng kỹ thuật, kỹ xảo quá rõ. Tôi nghĩ, thơ mà kỹ xảo, kỹ thuật
thì mất cái hồn nhiên, cái ngẩn ngơ..vốn là những cái nên thơ. Nhưng con người
khác trong tôi lại cãi: Thế bài thơ Sự Tự Do của thi sĩ Pôn Ê Luy A ( Paul
Eluard) thì sao? Những hiện tượng, những sự vật, những cảnh, ném tứ tung, ngổn
ngang, vô tổ chức trong bài thơ khiến cho người đọc bối rối, ngơ ngác, không
thể từ cái này liên tưởng đến cái kia dù là dòng tư duy đi nhanh đến đâu. Đến
lúc đó mới giác ngộ: A, tự do là thế, thế là tự do! Chính sự tự do của những ý,
những lời làm cho người đọc thơ Sống Với Sự Tự Do ( trong lúc đọc) dễ nhận thức
được ý niệm Tự Do. Như vậy, sự bừa bãi, rối loạn kia là nhà thơ bầy ra có dụng
ý, nhà thơ đã sử dụng kỹ thuật, kỹ xảo.
Trải qua vài
chặng hành trình như vậy, tôi nhớ ra cái chữ “ thế giới thi ca” như đã nói trên
và tôi cố gắng đuổi đi những định kiến, những cái “gu” chủ quan, bắt đầu đọc
lại thơ Nguyễn Nguyên Bảy với quan niệm Nó là Nó.
Tập thơ như có
ba phần: Tôi đọc, thấy cái lý ấy, cái lý của những bài thơ.
Một nhà tư tưởng
nói rằng: Con người ta đi từ sự hồn nhiên của tuổi thơ sang thời kỳ suy tư của
tuổi tráng niên rồi đến sự hồn nhiên của tuổi già. Tuổi thơ hồn nhiên vì chưa
hiểu sâu cuộc đời, tuổi già hồn nhiên vì đã hiểu sâu cuộc đời.
Tôi thực sự yêu
quý sự hồn nhiên trong sáng. /Là khi anh nói về em/ Bông hoa trước cửa tự
nhiên nở bùng/ Trên cành một giọt sương rung/ Gió nhẹ vô cùng thổi mãi không
rơi../ của những bài thơ trong độ tuổi thơ./
/Sóng sánh
trăng vai em/ Sóng sánh trăng tóc em/ Áo em vắt bên bờ giếng/ Anh không đánh
cắp đâu/ Nước trăng cứ ướp thật lâu/ Thật lâu cho anh nhìn trộm../Cái Giọt
Sương Rung, cái Gió Nhẹ
Vô Cùng Thổi Mãi..thật
đẹp, đẹp bâng khuâng:
Cũng là có tội
đấy (!) – anh nhìn trộm - nhưng cái tội đáng dung thứ. Hơn thế, đáng yêu, vì nó
hồn nhiên, có thể nói thanh khiết. Cũng như ta bị hấp dẫn bởi một mùi hương,
một sắc trời, một tiếng đàn!
Ban mai biển
hóa nên tranh/ Sương mù dăng tạc những thành lũy xa/ Một điệu song ngân ru ca/
Đàn buồm bươm bướm đậu là mặt mây/ Mùa xuân như bụi phấn bay/ Thơm môi vị gió
mặn say lòng người..//
Một bức tranh mà
chỉ người họa sĩ - trẻ thơ mới vẽ nên. Kỳ thú, gợi cảm. Những giọt mưa:
/Ai bên hang
xóm giọng trầm/ Như lời mưa cứ lầm thầm giọt rơi../
Và: /
Thời gian nghe nặng mưa tuôn/ Giọt xối xả chảy, giọt bồn chồn rơi../ gieo
vào lòng người những gì rất tâm tư. Tôi chợt nhớ câu thơ của thi sĩ Pháp: Mười
lăm, ôi Rô mê ô, tuổi nàng Duy li ét.
Khi đọc ở Nguyễn
Nguyên Bảy những câu thơ về tình yêu mới chớm nụ đầu xuân: / Lượn lờ
qua cửa nhà em/ Trái tim rối rít bên thềm đập vang/ Nho em chin đến rỡ rang/
Còn xanh. Anh nhủ thì thầm. Rồi đi/../ Đến khi mặt gặp mặt nhau/ Nho em thành
rượu trong bầu của ai../ Quả nhiên ta không thể không mỉm cười trước
lời tự thú là ngây dại của chàng thiếu niên chưa có kinh nghiệm trong tinh yêu
này và chia sẻ với anh một niềm luyến tiếc, nhưng cũng nhẹ nhàng thôi, tuổi trẻ
buồn đấy, vui đấy.
Đến khi gặp
những lời thơ: /Tình như nắng vãi khắp vườn giọt hoa/ Giọt nào cho cuộc
tình ta/ Để khi tắt nắng ta ra nhặt về../ thì tôi không ngăn được sự
ngạc nhiên trước tứ thơ ngộ nghĩnh mà “tả chân”: Những giọt hoa những
giọt hoa nắng vãi khắp vườn để ví với tình yêu, có cái tươi, có cái ấm, và cũng
có cái hư huyền..
Khung trời tuổi
thơ có vui, có buồn, nhưng tất cả đều nhẹ nhàng, dìu dịu, đóng lại để mở sang
một khoảng sống đầy ưu tư của tuổi tráng niên, khiến người đọc có sự bàng
hoàng.
Tôi bói Kiều
xin một chút vui/ Sao chỉ thấy Tiền Đường sóng vỗ/ Và đôi môi chon chót Thúy
Kiều cười../Đó là sự bạc bẽo của số phận: /
Đó là bất công
của tình đời, ví như Hoa nhài: / Ướp trà em.Cài tóc em. Mà vẫn khinh
em. Hoa nở đêm/ Em vẫn cứ nở đêm/ Cho ngon trà. Cho ngọt tóc. Em vẫn cứ là em.
Hoa Nhài../ / Kinh thành hai giờ sáng lặng đêm/ Vợ tôi ngủ đẹp như tranh
tĩnh vật/ Con cười mơ rung mặt phím dương cầm/…/ Hà Nội rạng đông/ Máu đã chảy
lên thành Quả Mặt Trời../Đó là chiến tranh. Hình ảnh chiến tranh-những ngày
B 52 ở Hà Nội - được dựng lên bằng hai mầu: Mầu xanh dịu của hạnh phúc và mầu
đỏ khé của chết choc, cái mầu thứ hai giết chết mầu thứ nhất. Có gì thật chua
chát, chân lý đảo ngược, khác lẽ thường: Đêm là sống, mà Mặt Trời là chết
Đó chính là điều
phi lý, nhưng đã xẩy ra mà con người thời đại không thể không suy tư. Tôi liên
tưởng đến Guéc ni ca của Pi cát sô. Chiến tranh rất độc ác. Nghệ thuật phải có
cách gì để diễn tả được sự độc ác ấy, một thứ nghệ-thuật-độc-ác.
Chưa hết đâu.
Còn sự thản nhiên trước những đau xót nhất (tình tan vỡ). Còn sự vấy lem những
gì tinh khiết nhất (tình đầu). Còn sự vi phạm đạo đức. Còn sự biện hộ cho lỗi
đạo ( tình bất chính)…
/ Khi tựa
gối, khi cúi đầu/ Khi vò chin khúc khi chau đuôi mày/ Rằng hay thì thật là hay/
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào../ Vô tình, tôi biết chắc như vậy –
tác giả chứng nhận có những đóa hoa đẹp của Tội-Đau như Bô dơ le nói, và những
lời thơ tuyệt vọng nhất là những lời thơ đẹp nhất của Muýt xê khảng định. Hoặc
như Nguyễn Du đã cho Kim Trọng nói lên khi nghe Thúy Kiều gảy đàn.
Phần này của tập
thơ, tôi đọc những lời thơ mượt mà, sắc sảo, nhưng để thể hiện những điều rất
xót xa../ Tranh tĩnh vật những ngón tay ngún lửa/ Giấc mơ thơ nát bấy như
bùn../ / Nào ngờ mắt xanh em mọng khóc thành mắt đỏ/ Ướt sũng vai áo anh. Và
thế/ Búp bê đi lấy chồng/ Hẹn anh gì mà mắt lung liếng xanh../ ..Trái đào mời
mọc/ Người coi vườn vắng xa bao lâu chưa về/ Trăng khuya ơi trăng khuya/ Thấp
thoáng, đong đưa bỏ đi sao đành../
Từ những điều
vừa nói trên, tác giả đã dẫn vào những lời thơ đạo Phật, đó là cái lô gích của
tâm hồn. Đạo Phật-hay đúng hơn Đạo Phật quan niệm của tác giả - là một chữ
“giác”, một chữ “tâm”. Tuy nhiên lần vào những hạt trong chuỗi tràng hạt vẫn
còn những viên sỏi hoài nghi, những câu hỏi muôn đời khó có lời đáp thỏa đáng:
/ Bể đời khổ sao bể đời vẫn chật?../ Trí dũng tát cạn được bể lửa/ Dám
dâng thân cứu nạn triệu sinh linh/ Sao không cứu được mình/ Trước song Mê, bến
Lú?../
Thật dễ hiểu -
nếu những bài thơ trong phần này diễn tả trọn vẹn một quãng đời ‘du tử”, “lãng
tử’- lại được kết thúc với Bài Ru Trằn Trọc: / Tôi ru trằn trọc rì rầm/
Trằn trọc vẫn thức với lỗi lầm hỏi tôi../ chưa phải đã là yên tịnh,
nhưng ta biết trằn trọc sẽ lắng dịu với lời ru.
Tôi nghĩ rằng ai
đọc phần còn lại của tập thơ cũng ấm lòng. Vì tất cả những bài thơ đều đầm ấm
hơi ấm nhân bản, nói nôm na: yêu đời, yêu người.
/ Trăng là em
đấy nuột nà/ Xõa tung mái tóc phủ lòa xòa vai/ Ta ghen với nước, nước ơi/ Ôm
toàn thân một con người thơm tho../
Thơ nói yêu và
yêu nói bằng thơ thì không lời nào bình giải đầy đủ được. Xin trả lại cho các
bạn đọc những bài thơ tình trong tập thơ Nguyễn Nguyên Bảy, như món quà cưới mà
tự tay cặp tân hôn mở ra để là những người đầu tiên đón nhận niềm vui, hạnh
phúc. Mời các bạn đọc Cửa Rừng/ Trăng Mật/ Hoa Quỳnh/ để hiểu những điều không
thể nói, không cần nói mà hiểu nhiều, hiểu đủ.
Có những bài thơ
viết về Những Nếp Nhăn Đuôi Mắt. Chớ thấy cái tựa đề ấy mà ngại. Có cái thời
của Cái Nhìn Dao Cau và có cái thời của Những Nếp Nhân Đuôi Mắt ấy là tự nhiên,
là quy luật, sao tránh được. Nhưng cái tình của thời những nếp nhăn đuôi mắt
đắm đuối, trẻ trung, thủy chung. Cứ đọc xem: /Những nếp nhăn đuôi mắt/ Trao
bao mùa xuân yêu../ Nụ tất phải nở thành hoa, tình yêu tất yếu phải nở
thành những đứa con: / Hôm nay con của chúng ta/ Cảm ơn em, tiếng oa oa
con chào/ Bao nhiêu sung sướng ngẹn ngào/ Đôi ta gieo hạt máu vào nhân gian../
Sự thử thách của
cuộc sống còn ghê gớm hơn nhiều. Nó thử thách bằng cái chết của một đứa con,
bằng cái suýt chết của chính tác giả. Bám vào cái phao cứu trợ tình yêu, nổi
trôi, dập vùi trên muôn đợt sóng biển khổ, rồi cũng đến bờ. Đèn Trăng rồi Tượng
Đài ấy là Tình yêu và hạnh phúc. Nếu dùng đúng chữ xúc động, thì tôi dành từ ấy
cho những bài thơ trong phần này. Nghệ thuật chỉ thực sự xúc động khi nó nhân
bản. Những đề tài muôn thuở của thơ thấm lọt vào lòng là những vấn đề của con
người: Tồn tại hay là không tồn tại.
Cho nên tôi thấy
rất thơ, vì thấy rất đời, rất người, những câu:
/ Rồi em phì
nhiêu như đồng xanh/ Rồi em ngát thơm trang sách/ Rồi em vợ một đời../
/ Em Đức Chúa
trong thơ/ Muối đời trong nước mắt/
/ Cuộc đời lá
đẹp thế/ Rơi xuống đường còn lăn/ Còn rực lên ánh vàng/ Trước khi khô chết
hẳn../
/ Tóc sắp khô
rồi cho anh ngồi thêm chút/ Ngắm em than thở nỗi thương em../
/ Anh nhìn
thấy mình hiện ra trong mắt em yêu/ Tim em đã nuốt những giọt khóc/ Đầy tràn
gương mặt anh đôi mắt u hoài, xanh biếc/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên
trời đêm đêm nhìn anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ../
/ Những bài
ru xanh những bài ru đỏ/ Những bài ru muôn hồng ngàn tía/ Cha vẫn cứ ru dù con
đã xa rồi../
Tập thơ có hậu.
Nói thế nghe rất tẻ nhạt. Nhưng quả là thế, nên phải nói thế. Có hậu nghĩa là
cuối cùng, tất cả chỉ là con người, nghĩa là tình yêu. Muôn ngàn con suối dòng
sông chảy vào biển cả. Nguyễn Nguyên Bảy cho tôi xem bản thảo tập thơ và có sự
tin cậy muốn tôi nói cho vài điều nhận xét, tôi ghi lại cảm tưởng đầu tiên,
thấy sao nói vậy, chủ tâm là chỉ muốn nói riêng với Bảy thôi.
Sài Gòn 8.1988
NGND, GS. Hoàng Như Mai
LỜI NÓI SAU CỦA MỘT NGƯỜI ĐƯỢC ĐỌC TRƯỚC
Bài in sách Thơ Nguyễn Nguyên Bảy, NXB TPHCM, 1988.
/ Mời đọc tiếp ; Thơ Kinh Thành Cồ Tích, phần thơ NNB/
VANDANBNN
LỜI NÓI SAU CỦA MỘT NGƯỜI ĐƯỢC ĐỌC TRƯỚC
Bài in sách Thơ Nguyễn Nguyên Bảy, NXB TPHCM, 1988.
/ Mời đọc tiếp ; Thơ Kinh Thành Cồ Tích, phần thơ NNB/
VANDANBNN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét