Tôn Tử từng nói rằng:
“Dùng lời tặng người thì quý như châu ngọc, dùng lời đả thương người thì sắc
như thanh kiếm”. Đối với những người tu hành xưa mà nói, tu khẩu là vô cùng
quan trọng. Thời cổ đại yêu cầu người tu hành phải làm được không nói lời dối
trá, không nói lời ác độc, không nói lời xằng bậy. Bởi vì họ cho rằng lời một
khi nói ra là có tích đức và tạo nghiệp.
Người xưa có câu:
“Tĩnh tọa thường tư kỷ quá, nhàn đàm mạc luận nhân phi”, khi ngồi yên thì nghĩ
về mình, khi nói thì không bàn lỗi người khác. Do đó người có đạo đức cao
thượng thời xưa đều lấy tu dưỡng lời nói làm nền tảng căn bản để làm người, để
đối nhân xử thế. Trong cuộc sống, một số người xấu dùng lời nói bịa đặt để hãm
hại người khác và cho đó là kế sách hay, nhưng qua một giai đoạn thời gian sẽ
có ác báo lớn hơn đến với họ.
Ngôn ngữ là chiếc cầu
nối câu thông giữa người với người trong xã hội, cũng là thứ thể hiện ra thế
giới nội tâm bên trong của một người. Cho nên, muốn nói ra được những lời thiện
ý, lời minh mẫn, thú vị và vui vẻ, khiến người nghe dễ dàng tiếp nhận được, thì
trong tâm phải có thiện ý, trong tâm phải có sự quan tâm hòa ái. Đặc biệt là
với những người tu hành thì trong tâm lại cần phải từ bi, vị tha, không có sự
ích kỷ, như vậy thì mới có thể tạo phúc cho mọi người, kết được nhiều thiện
duyên.
Miệng lưỡi của con
người là khó khống chế nhất, nên khi khống chế tốt thì vừa có thể tu hành vừa
có thể tích đức. Nhưng miệng lưỡi của con người lại lợi hại như một thanh kiếm
sắc bén, nên dễ dàng làm điều ác nhất. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta
không khó để gặp những người biết ăn nói nhưng đáng tiếc lại dùng không đúng
chỗ. Cũng có những người thường xuyên nói lời chua ngoa, một khi nói là không
chừa cho người khác đường lùi. Chỉ cần người khác đắc tội với họ cho dù là vô ý
thì họ cũng tận sức dùng lời nói để công kích lại.
Có một câu chuyện cổ
Phật gia kể rằng: Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ngài từng dẫn dắt
các đồ đệ đến nước Già Sư Na để truyền bá Phật Pháp. Đại đệ tử của Phật Thích
Ca Mâu Ni là Mục Kiền Liên đã đi vào trong thành để tìm những người có duyên.
Khi Mục Kiền Liên nhìn thấy hành vi của những người dân nơi đây, ông đã dùng
đạo lý nhân quả để nói với họ rằng hành vi ngu ngốc của họ nhất định sẽ phải
chịu báo ứng khổ cực. Dân chúng nghe lời của Mục Kiền Liên, ai nấy đều không
chịu tiếp nhận, thậm chí còn nổi giận đùng đùng đuổi ông ra khỏi thành. Mục
Kiền Liên không những không hoằng dương được Phật Pháp mà còn khiến dân chúng
oán trách.
Về sau, Phật Thích Ca
Mâu Ni lại phái Bồ tát Văn Thù Sư đến nước Già Sư Na để hoằng Pháp. Sau khi Văn
Thù Sư đến nước này, ngài không lập tức tuyên dương Phật Pháp mà trước tiên
khen ngợi những điểm tốt đẹp trong đức tính của dân chúng, rồi nhân đó mà
khuyến Thiện. Những lời nói ấm áp của ngài khiến dân chúng hân hoan phấn khởi
và dễ dàng tiếp nhận. Cuối cùng, dân chúng cầm trong tay hoa thơm, lương thực,
trân bảo, thành tâm thành ý cung dưỡng. Văn Thù Sư đã dẫn những người dân nơi
đây đến trước Phật Thích Ca Mâu Ni, cung kính quỳ lạy và nghe Đức Phật giảng
Pháp.
Bởi vậy, người có tâm
lượng rộng lớn mới có thể thể hiện ra phong phạm khoan dung, người có tâm địa
vô tư thì mới tỏa ra hào quang của sự chân thành và lương thiện. Trạng thái
vĩnh hằng của bậc Giác Giả chính là từ bi. Những người tu hành xưa đều là dùng
Thiện để quảng kết thiện duyên, khiến người có duyên được cứu giúp.
Trong một xã hội, nếu
mỗi người đều mang trong mình tấm lòng nhân từ, thương xót người khác, dùng lời
thiện ý nói với người khác, thì có thể khiến xã hội duy trì một trạng thái
tường hòa và tốt đẹp.
VANDANBNN st tu thân/
gt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét