NHIỀU TÁC GIẢ
Chủ biên: Nguyễn Nguyên Bảy
Chủ biên: Nguyễn Nguyên Bảy
6. Văn đò đưa
LÊ XUÂN QUANG
ĐOÀN VĂN CỪ
LÊ XUÂN QUANG
ĐOÀN VĂN CỪ
Đường Về Quê Mẹ vẫn
không quên !
Kỉ niệm 99 năm ngày
sinh của thi sĩ Đoàn Văn Cừ (25.3.1913 – 25.3.2012),
8 năm ngày mất ( 27.6.2004 – 27.6.2012)
8 năm ngày mất ( 27.6.2004 – 27.6.2012)
Tháng 5 năm 2007, Nhà xuất bản Gíao dục và Trung tâm văn hóa Doanh Nhân cho ra đời tuyển tập 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20. Một tháng sau (6.07), Nxb Hội nhà văn cũng cho ấn hành Tuyển tập thơ chọn lọc thế kỷ 20. Cả hai tuyển tập đều chọn bài thơ Đường về Quê Mẹ - một trong ba thi phẩm xuất sắc của nhà thơ Đoàn Văn Cừ (2 bài kia là Đêm hè, Chợ tết).
Đoàn
Văn Cừ được dư luận người đọc đương thời mệnh danh là 1 trong 4 ’’Thư kí thời
đại đã lưu giữ hồn quê Việt Nam’’ trong thơ ca của mình. (Ba người kia là Anh
Thơ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính).
Đường
Về Quê Mẹ viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, 6 khổ, 24 câu, vẽ lại hình ảnh
người phụ nữ nông thôn VN khi xưa, muốn cho con cái không quên cội nguồn, người
mẹ trẻ dắt các con về thăm quê ngoại.
Bài
thơ chỉ miêu tả khung cảnh đồng quê trên đường đi mà không bình luận. Tác gỉa
’’chộp’’ lấy khoảng thời gian, không gian, khung cảnh cánh đồng, làng quê… đẩy
cảm xúc nghệ thuật lên cao rồi ghi lại. Chỉ tới 4 câu kết, nhà thơ mới gían
tiếp bày tỏ tâm tư thông qua nhận xét của dân làng: Dẫn là thân phận ’’nữ nhi
ngoại tộc’’, người phụ nữ thảo hiền vẫn không quên quê cha đất tổ…
Theo
nguyên tắc của thể thơ Đường, tác gỉa vào đề bằng hồi ức của đứa con vẫn giữ
lại trong trí tưởng hình ảnh lúc bé theo mẹ về thăm quê ngoại:
U
tôi ngày ấy mỗi mùa xuân/ Dặm liễu mây bay sắc trắng
ngần/ Lại dẫn chúng tôi về nhận họ/ Bên miền quê ngoại của hai thân.
U -
là cách gọi mẹ của dân mấy huyện xung quanh thành Nam. (gọi cha, bố là Thầy). Nguyễn Bính người huyện Vụ
Bản cũng xưng hô với mẹ như thế. Ông đưa vào bài thơ Chân Quê: ’’Thầy U mình
với chúng mình chân quê’’ (1). Thế nhưng dân ở hai huyện Giao Thủy, Hải Hậu –
cũng là đất Nam Định - thì vẫn xưng hô: Bố - Mẹ.
Hai
thân (hay song thân) - là cách gọi bố mẹ của những người có học thể hiện sự
kính trọng, văn hoa. Nhà thơ dùng cụm từ:: ’’dặm liễu – mây bay – (sắc) trắng
ngần’’ - vừa như tả cảnh trí (mây trắng bay…) nhưng cũng thể hiện cách điệu sắc
đẹp ngoại hình của mẹ: Tinh tế, thướt tha, uyển chuyển...
Tôi
nhớ đi qua những rặng (cây) Đề/ Những giòng sông trắng lượn
ven đê/ Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp/ Người xới cà, ngô - rộn bốn bề.
Quê
cụ Đoàn làng Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực - nằm cách chân đê sông Hồng
không xa. Tại sao lại có ’’Những giòng sông trắn lưọn ven đê’’?
Dọc
con đê, phía ngoài là sông Hồng - sông lớn nhất ở miền Bắc, ven đê phía trong
lại có những sông con lượn quanh. Nguyên do: Để chống lại những cơn lũ gây vỡ
đê khi nước sộng dâng cao mỗi mùa lũ tới, dân cư hai bên bờ tả ngạn (Nam Định)
- hữu ngạn (Thái Bình), đào đất trên cánh đồng, đem bồi đắp đê ngăn nước. Đê
sông Hồng là con đê to nhất miền Bắc, bởi vậy đất đào nhiều, tạo thành những
con sông chạy dọc theo đê. Khoảng cách giữa đê chính và sông đào tuy không xa
nhưng khoảnh đất này khá lớn lại khó có thể trồng lúa vì khi xưa không có bơm
điện nên ở đây úng lụt. Không để lãng phí đất, dân quê phải tôn lên cao (vượt),
tạo thành những cồn đất. Còn bãi - thường nằm dưới chân đê cạnh mép nước sông.
Trên bãi, dân cư trồng hoa mằu như ngô, khoai, rau cải, cà pháo, cà tím, đậu...
các cây trồng đã tạo cảnh sắc ’’Cồn xanh (mầu lá rau cải…) bãi tía (tím nhạt) -
cà tím, khoai tía…) kề liên tiếp’’...
Dọc
bờ sông đào được trồng những hàng cây Đề, tạo thành rặng cây. Cây Đề cùng họ rễ
buông với cây Đa. Trên bờ, Đề buông rễ xuống mặt nước... đây đó từng đoạn vài
trăm mét lại có một lều cất vó hoặc những con thuyền nan có những cụ gìa buông
cần câu cá, làm phong cảnh sông nước, đồng quê thật bình yên, tĩnh lặng, nên
thơ...
Thúng
cắp bên hông, nón đội đầu/ Khuyên vàng, yếm thắm, áo
the nâu/ Trông U chẳng khác thời con gái/ Mắt sáng môi hồng má đỏ ău.
Người
phụ nữ thời xưa thường dùng (cái) thúng - đan bằng tre, vành cạp mây - đựng đồ
vật để buôn bán hay di chuyển, mang đi. Thi sĩ Nguyễn Vĩ đã viết trong Gửi
Trưong Tửu: ’’Còn tôi bưng thúng theo đàn bà/ ra chợ bán văn ngày tháng qua’’
(3). Lần về này, mẹ mang thúng đựng qùa tặng Thầy, U và người thân. Vì trọng
lượng thúng nhẹ - dăm ba cân, đi gần - mẹ cắp bên hông chứ không đội.
Người
mẹ mà nhà thơ miêu tả - dắt theo mấy đứa con (...dẫn chúng tôi...), chắc thời
con gái mẹ đẹp lắm. Bây giờ dù đã có đàn con, nhưng nhìn trang phục: Yếm thắm,
khuyên vàng, áo the nâu và ’’má (vẫn) đỏ ău’’, cậu bé có cảm nhận mẹ mình vẫn
như thời con gái! Dưới cái nhìn của câu, người mẹ thân yêu thật đẹp. Đó cũng là
hình ảnh của những người mẹ trẻ đương thời, vì khi nhà thơ viết ĐVQM đã ở tuổi
29 (1913 - 1942). Kí ức về mẹ của tác gỉa chỉ còn rất ít, vì khi theo mẹ về quê
ngoại, nhà thơ mới năm bẩy tuổi...
Tà
áo nâu in giữa cánh đồng/ Gío chiều cuốn bốc bụi sau
lưng/ Bóng U như bóng người thôn nữ/ Cúi nón mang đi cặp má hồng
Về
làng, mẹ con phải vượt qua cánh đồng. Tấm áo the nâu của mẹ
mỏng tang. Gío chiều thổi mạnh, cuốn bốc bụi sau lưng. Mẹ khép mình, như tránh
những làn bụi hắt vào thân thể. Cúi đầu, kéo nón che cả khuôn mặt để tránh bụi
bay vào mắt. ’’Cúi nón’’ - khiến che cả má hồng của mẹ. Trông mẹ như e ấp… cậu
bé cảm thấy mẹ mình như bao cô gái quê ở tuồi cập kê - khép nép, dịu dàng…
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng/
Đoàn
người về ấp gánh khoai lang/ Trời xanh , cò trắng
bay từng lớp/ Xóm chợ lều phơi xác
lá bàng.
Làng
Đô Quan, phía nam là vùng đất trũng chỉ trồng được lúa. Phía bắc giáp với các
làng Thôn Nội, Liên Tỉnh… là vùng đất cao, pha cát, thích hợp trồng hoa mầu nên
dân cư không trồng lúa...
Khoai
lang của vùng đất pha cát - rât đặc biệt: Củ to bằng bắp chân người lớn, nặng
từ 300 đến 1 kilô. Có nhiều củ nặng đến vài ba kí lô. Khi luộc, bột khoai bở,
nuốt phát nghẹn. Có loại khoai nghệ (mầu vàng như mầu củ nghê), luộc chín, bóc
vỏ, ruột khoai vàng thẫm, đường tứa ra ngọt như tẩm mật nên dân Nam Định gọi là
khoai nghê – khoai mật.
Thơì
gian mẹ về quê vào buổi chiều nên gặp nhiều nông dân bới khoai gánh về thôn ấp.
Chiều quê hương thật đẹp: Bầu trời xanh cao thăm thẳm, từng đàn cò trắng bay về
tổ, in trên nền xanh làm nổi hẳn những cánh cò trắng phau. Qua chiếc chợ ở đầu
làng (người mua kẻ bán đã về hết), nhựng chiếc lêu qúan xiêu vẹo ngập xác lá
(cây) Bàng, thứ cây thường được trồng ở những nơi dân cư tụ tập (chợ, trường
học, đình làng…) để lấy bóng râm, che cho người đứng dưới mát mẻ, giảm oi nồng
trong mùa hè nóng nực.
Qua
khỏi chợ, mẹ con tiến vào làng:
Tới đầu làng gặp những người quen/
Ai
cũng khen U nết thảo hiền/ Dẫu phải theo chồng
thân phận gái/ Đường về quê mẹ vẫn
không quên.
Người
mẹ trẻ gặp bà con chòm xóm. Ai cũng vui mừng hồ hởi vì biết nàng dù đã đi lấy
chồng nơi xa nhưng vấn về thăm quê hương, tổ tiên, ông bà, cha mẹ . Thơi xa
xưa, dân ta đã tổng kết: ’’Con gái là con ngưòi ta’’. Con gái gả chồng coi như
’’bát nước đổ đi’’. Trên thực tế: Người con gái lấy chồng phải đổi họ, phải
gánh vác ’’giang sơn’’ nhà chồng. Gánh nặng cuộc đời đè nặng trên vai gầy của
người đàn bà tần tảo, nghèo khiến họ không còn khả năng giúp đỡ bố mẹ đẻ…
Bố
mẹ đẻ cũng cưới con dâu cho em (anh) trai cô gái đã đi ở riêng. Người con dâu
kia cũng lặp lại theo chu kì mà con gái ông bà đã đi. Đây chính là quy luật
cuộc đời, là cái ’’nợ đồng lần’’ mà tất cả mọi gia đình trong cộng đồng tộc
Việt đều chia sẻ.
Theo
nhiều tư liệu: Đoàn văn Cừ sinh năm 1913, mồ côi mẹ từ lúc 5 tuổi. Cũng giống
Nguyễn Bính, dù mất mẹ lúc còn nằm trong nôi, cũng viết về mẹ rất hay (bài Lòng
Mẹ). Người Mẹ trong thi ca của cả hai nhà thơ đất Nam Định đều được người đọc
Việt Nam tán thưởng đến xúc động.
Tuy
nhiên, tôi góp ý về nhận định của Trần Ngọc Thụ Trong một bài viết, có đoạn:
’’… Nói nhiều đến từ "thật" là vì gần đây một nhà thơ khi bình
thơ Đoàn Văn Cừ có nói: Đường về quê mẹ là bài thơ nhiều màu sắc, đủ 12 màu như
bài Chợ tết, và Đoàn Văn Cừ lấy hình ảnh của những thiếu nữ nông thôn đương
thời để viết về mẹ mình ngày xưa, tạo nên hình ảnh người phụ nữ nông thôn tiêu
biểu thời xưa.
Nói như thế thật không thấu lý đạt tình’’
(Mẹ trong thơ Nguyễn Bính và Mẹ trong thơ Đoàn Văn Cừ - Trần Ngọc Thụ (*)
Tôi
hoàn toàn đồng ý với ý kiến nhận xét của nhà thơ mà tác gỉa TNT không tán
thành. Cụ Đoàn Văn Cừ viết ĐVQM trên nền sự thật, cảnh thật mà tác gỉa nhìn
thấy trên đường về quê ngoại (làng Cổ Gỉa). Tuy cảnh phải nói là rất ’’THẬT’’,
nhưng đã được điển hình hóa của nhiều cảnh thật xung quanh, chứ không phải cái
thật cụ thể trên đường từ Đô Quan (quê nội) đến Cổ Gỉa (quê ngoại). Đoạn đường
này nằm ở phía tây , không có ’’Những giòng sông trắng lượn ven đê’’, càng
không có ’’cồn xanh bãi tía kề liên tiếp’’ - để nhà thơ dựng lên khung cảnh bài
thơ ĐVQM.
Bởi
vì, khi tác gỉa mới dăm tuổi, cụ bà - mẹ nhà thơ - đã mất. Một đứa trẻ 5 tuổi
không có nhận xét về mẹ… như các câu thơ của bài thơ. Sự thực, bài thơ được tái
tạo vào năm 1942 - lúc Đoàn Văn Cừ 29 tuổi. Tác gỉa kết hợp từ quan sát ’’thì’’
hiện tại, với hồi ức của qúa khứ mới viết ra ĐVQM.
Bài
thơ là sự khái quát được kết tinh hoàn toàn do trí sáng tạo. Nói cụ thể hơn:
Cái ’’thật’’ trong thơ chỉ là ’’Bột’’ đề ngòi bút tài năng gột nên ’’Hồ’’ –
Đường về quê Mẹ!
Cũng
giống như Nguyễn Bính viết bài Lòng Mẹ. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ hoàn
toàn do tác gỉa tưởng tượng ra trên nền của các hình ảnh diễn ra xung quanh, do
người thân, do dân cư trong vùng kể lại hoặc do chính Nguyễn Bính chứng kiến
sau này. Bà mẹ trong bài thơ Lòng Mẹ có cô con gái đi lấy chồng… trong khi NB
mất mẹ từ khi hãy còn ẵm ngửa.
Có
rất nhiều thí dụ về sự sáng tạo của nhà Thơ. Nhân vật - Thật - Gỉa gắn quyện -
tạo ra nhân vật sống động, trường hợp này là ’’GỈA’’, nhưng trường hợp khác lại
hoàn tòan ’’THẬT’’… Dù Gỉa đấy, nhưng là hình ảnh của nhiều người được tác gỉa
chắt lọc xây dựng lên. Người nữ du kích trong Núi Đôi của Vũ Cao, được sáng tạo
từ những anh hùng liệt sĩ khác… Ngược lại, nhân vật ’’nàng’’ trong Mầu Tím Hoa
Sim của Hữu Loan - lại là bản sao thật của người vợ trẻ của nhà thơ…
Một
chi tiết khác: Tôi là người làng Xối Tây (Xã Nam Long bây giò la Nam Thanh),
làng tôi và làng Đô Quan của cụ Đoàn (Xã Nam Lợi) - chỉ cách nhau 1 cánh đồng (4).
Quê ngoại của cụ là làng Cổ Gỉa (…) – nằm ở phía tậy, phía trong 2 xã kia, gần
đưòng tỉnh lộ số 55. Cổ Gỉa nằm cách xa đê sông Hồng nên không có ’’những giòng
sông… lượn ven đê’’, không có ’’cồn xanh, bãi tía’’. Nhưng từ làng Đô Quan đi
ra phía đê sông Hồng, nghĩa là ngược hướng với Cổ Gỉa (quê ngoại) , thì cảnh
trí này toàn là… thật – như câu thơ đã viết.
Cũng
như vậy - Bài Chợ Tết nổi tiếng của Đoàn Văn Cừ - không phải cảnh chợ tết ở quê
hương nhà tho. Vì huyện Nam Trực không có núi đồi đề miêu tả ’’Trên con đường
viền trắng mép đồi xanh’’. Điều này cũng đã đưọc cụ Đoàn nói rõ trong một bài
phỏng vấn của phóng viên Văn Nghệ - ND.(khi đó cụ Đoàn đã yếu lắm, phải trò
truyện bằng bút đàm):
’’…
Hỏi: Ông đã lấy những hình ảnh phiên chợ
tết quê mình để viết bài thơ Chợ Tết phải không?
Trả lời: Phải vậy (mà) cũng không phải vậy… Từ năm tám tuổi tôi đã thích
theo mẹ đi chợ. Có những chợ ở cạnh sông, lại có những chợ ở bên núi. Chợ ở
giữa trời đất. Những cái chợ đấy có cả ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Việt Trì... chứ đâu
chỉ có ở quê mình. Cái chợ này là hồn vía của người Việt Minh ở miền bắc. Mấy
năm trước bên làng Lao có một đoàn người sang gặp tôi bảo rằng đó chính là
phiên chợ của làng họ. Họ xin phép tôi cho khắc đá bài thơ…’’
(*)
Nói
tóm lại: Các bài thơ hay nhất của Đoàn Văn Cừ đều là thơ miêu tả khung cảnh
đồng quê Việt Nam. Trước hết được tác gỉa sáng tạo trên nền của cái ’’Thật’’.
Có điều vốn sống của nhà thơ qúa dồi dào, tài năng, công với sự quan sát kỹ
càng, tỷ mỉ, sâu sắc, nắm bắt được cái thần - bản chất của người và vật, xử
dụng ngôn từ tinh tế, dân dã… đã tạo ra tác phẩm thành công mĩ mãn.
Hầu
như toàn bộ sáng tác thơ của Cụ Đoàn trong 2 tập thơ Thôn Ca (I, II) - đều được
thể hiện theo phong cách tả cảnh. Dù là tả cảnh ’’sao chép… chụp ảnh’’, nhưng…
người đọc nhìn cảnh – sinh tình, cảm thụ đưọc hết vẻ đẹp của thôn quê Việt Nam.
Vả lại, dưới ngoi bút tài hoa, hiểu biết đồng quê, ’’Người thư kí thời đại’’
Đoàn Văn Cừ đã mang đến cho người đọc cảm xúc rạt rào, nhận thức sâu sắc, đẩy
khoái cảm thẩm mĩ lên cao tột đỉnh…
Điều
quan trọng hơn: Từ chủ đề rõ ràng, cấu trúc chặt chẽ, câu, ý thơ trong sáng
khiến hiệu qủa truyền cảm của tác phẩm thêm mãnh liệt. Hai câu kết của Đường Về
Quê Mẹ có thể đã vượt ra ngoài dụng ý của tác gỉa. Người đọc phải suy tư, đi
đến đồng cảm, khiến tận trong cõi sâu tâm hồn nhận ra - bài thơ đã chuyển ý,
vượt ra khỏi khuôn mẫu, bay bổng, kích thích trí tưởng: Đó là lời nhắn nhủ, là
thông điệp của tác gỉa chuyển đến mọi người đọc:
Dù
đã đi theo người…/ Dù đã về làm dâu nhà người…
Đừng
bao giờ quên Đường Về Quê Mẹ!
Berlin
09.04.09 – 9.11.2012
(1)
- Nhà thơ Nguyễn Bính cũng có bài thơ Chân Quê, cùng chủ đề về quê hương như
Đường Về Quê Mẹ:
…
Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay
đi ít nhiều.../ Cứ ăn mặc thế cho vừa
lòng anh…/ Em ơi! giữ lấy Chân quê!
Theo
nhiều người đương thòi : Nguyễn Bính viết bài này nhằm phê phán một số nhà thơ
’’mất gốc’’,’’cóp nhặt’’ phong cách thơ nước
ngoài (Pháp, Nhật…) - làm mất vẻ đẹp truyền thống của thơ Việt…
(2)
- Cùng 5 huyện phía nam (bên kia cầu đò Quan – sông Đào) với tỉnh Thái Bình -
tạo nên vựa lúa của đồng bằng châu thổ sông Hồng. 6 huyện phía nam: Nam Trực,
Trực Ninh, Hải Hậu, Xuân Trường , Giao Thủy, Nghĩa Hưng - đều chuyên canh trồng
lúa nước. Chỉ có vài xã giáp ranh với làng Đô quan (thuộc huyện Nam Trực) là
trồng mầu – cây công nghiệp.
(3)
– Cái thúng là một vật đan bằng tre, rất thông dụng ở nông thôn VN. Các bà, các
cụ bỏ đồ vật, (thóc, gạo…) vào trong.
Nếu
di chuyển gần thì bưng, bê./ Xa hơn – vài cây số -
cắp nách-/ Xa dăm cây số - đội./ Xa mươi cây số thì bỏ vào quang, gánh… .
(4)
- Thời kháng chiến chống Pháp, các thôn: Ngọc Tỉnh, Duyên hưng, Nam hưng, Bằng
hưng, Xối tây, Xối trì, Hạ lao, Đô quan - đều thuộc xã Nam Long. Sau năm 1954
xã chia đôi thành Nam Long và Nam Lợi…
Văn đò đưa Lê Xuân Quang/ Tác giả gửi bài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét