Thứ Tư, 13 tháng 5, 2020

NGƯỜI ĐÀN BÀ BẰNG VÀNG (WOMAN IN GOLD)

GUSTAV KLIMT: VƠI NHỮNG TRẬN MƯA VÀNG


Năm 2006, nhà đấu giá nghệ thuật lớn nhất thế giới Christie’s đã bán một bức tranh cho tỷ phú người Mỹ Ronald Lauder với giá 135 triệu đô la (tương ứng với 155.8 triệu đô la ở thời điểm hiện tại). Trong vòng bốn tháng sau đó, “Bức chân dung Adele Bloch-Bauer I” giữ vai trò bức tranh đắt nhất thế giới trước khi nó bị soán ngôi bởi “No.5, 1948” của Jackson Pollock. Nếu nói bức tranh này đắt như vàng thì cũng không sai, bởi bề mặt tranh được bao phủ bởi những lá vàng thật! “Bức chân dung Adele Bloch-Bauer I” thuộc về một giai đoạn được những nhà phê bình mỹ thuật gọi là “thời kì vàng” của Gustav Klimt, đồng thời đó cũng là những năm hoàng kim trong sự nghiệp của họa sĩ này.


Gustav Klimt trong trang phục ông thường mặc khi vẽ: một chiếc áo choàng rộng thoải mái (và không có gì bên trong!). Bản thân là một người phóng khoáng và phóng túng, Klimt cũng là một Don Juan chính hiệu: tuy chỉ sống đến 56 tuổi, ông có ít nhất mười bốn đứa con ngoài

giá thú.
Gustav Klimt sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở Vienna, song năng khiếu nghệ thuật của ông bộc lộ từ rất sớm. Ông bắt đầu sự nghiệp bằng việc vẽ trên tường và trần nhà các công trình lớn ở Vienne, song tài năng của ông chỉ thực sự thăng hoa khi ông trở thành một thành viên chủ chốt của phong trào Ly khai thành Viên (Vienne Secession), một nhánh của phong trào Art Nouveau ở châu Âu. Mục tiêu của nhóm là sự phá cách, không ràng buộc, mở rộng vòng tay đón chào những yếu tố mới, con người mới. Biểu tượng của nhóm là nữ thần trí tuệ và chiến trận Athena, hay được biết đến với tên gọi Minerva theo thần thoại La Mã.

Athena dưới góc nhìn của Klimt, hoàn thành năm 1898
Tác phẩm nổi tiếng nhất gắn với phong trào Vienne Secession của Klimt là “Beethoven Frieze” (frieze – trụ ngạch – phần trang trí ở dưới mái gờ); nó nằm ở Secession Building – một tòa nhà được xây với mục đích tuyên dương những thành tựu về hội họa, điêu khắc, kiến trúc của phong trào Secession. Klimt vẽ “Beethoven Frieze” cho cuộc triển lãm năm 1902 dành cho bức tượng Beethoven của Max Klinger, cùng với các họa sĩ khác như Roller, Boehm, Andri.
Theo dự định, khi cuộc triển lãm kết thúc, tất cả các bức tranh tường đều bị phá hủy, song nhờ nhà sưu tập Carl Reininghaus mà bức tranh tường của Klimt vẫn tồn tại đến ngày nay, mặc dù trong tình trạng cần được sửa chữa khẩn cấp. Bức tranh tường này cao 2m, dài 34m, là một nỗ lực tái hiện lại bản giao hưởng số Chín của Beethoven theo trật tự tuyến tính – cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc của con người trong một thế giới đầy rẫy bóng tối và cám dỗ.


Sắc đẹp cám dỗ (chi tiết của “Beethoven Frieze”)

Chàng hiệp sĩ đem đến sức mạnh cho con người thông qua hy vọng (chi tiết của “Beethoven Frieze”)

Đồng tiền kỉ niệm phong trào Secession của Áo với các chi tiết của “Beethoven Frieze”
“Thời kì vàng” của Klimt bắt đầu khi ông rời khỏi nhóm Vienne Secession. Dù đã sử dụng vàng lá trong các tác phẩm của mình trước đó, ông chỉ thật sự tận dụng chất liệu này trong những tác phẩm nổi tiếng, bao gồm: “Bức chân dung Adele Bloch-Bauer I”, “Nụ hôn” (The kiss), “Cây đời” (Tree of Life), và “Danae”. Khi Klimt đến xem những bức tranh khảm mosaic thời kì Byzantine ở Ravenna, ông nhận thấy sự phẳng gần như tuyệt đối, không có chiều sâu của những bức tranh này càng làm nổi bật sự lóng lánh, lộng lẫy của chúng. Điều này cũng tương tự như việc Aubrey Beardsley đã tận dụng không gian hai chiều để làm tập trung sự chú ý vào những mảng màu đen trắng vậy.
Ngoài đam mê nghệ thuật, Klimt còn thích đi du lịch tới vùng đồng quê nước Ý. Giống như những họa sĩ Art Nouveau khác, Klimt yêu thiên nhiên, đặc biệt là mùa thu. Những mảng màu vàng của mùa thu đã hút hồn họa sĩ và ông cũng phần nào tái hiện lại chúng trên những bức tranh vàng rực rỡ.

Nàng Adele Bloch-Bauer, vợ của nhà công nghiệp giàu có Ferdinand Bloch-Bauer, là người phụ nữ duy nhất được Klimt vẽ hai lần. Ngoại trừ gương mặt và đôi bàn tay được khắc họa rất thật, toàn bộ phần còn lại của bức tranh là vẻ huy hoàng của vàng và những hình kỉ hà – tính trang trí của Art Nouveau được đẩy lên đến mức tối đa tạo sự tương phản với người phụ nữ bằng xương bằng thịt kia. Đã có ít nhất ba bộ phim và hai cuốn sách kể về những câu chuyện rắc rối liên quan đến số phận long đong của bức tranh.

“Nụ hôn” – khúc ca tuyệt đẹp về tình yêu và sự lãng mạn. Biểu tượng của phong trào Art Nouveau tại Áo. Cặp đôi quấn quít giữa cánh đồng hoa dát vàng bị đồn là chính dựa theo Klimt và người bạn tri kỉ của ông – Emilie Floge. Tuy cả đời không kết hôn nhưng với Emilie ông có một mối quan hệ gắn bó keo sơn hơn tất cả những mối tình qua đường. Trước khi mất ông chỉ gọi tên bà.

“Cây đời” – một ví dụ hoàn hảo của những đường cong Art Nouveau. Sự tương phản của gương mặt hai người phụ nữ và không gian dát vàng “siêu thực” khiến gợi nhớ đến Adele Bloch-Bauer. Trong tranh Klimt, phụ nữ không chỉ là những nhân vật quyến rũ và bí hiểm, mà còn đóng vai trò trang trí, cũng như những bông hoa, những con chim, con bướm trên cây vậy. Hai người phụ nữ hai bên tranh được coi là biểu tượng về hai giai đoạn của đời người, còn cái cây là một thực thể sống động, biến hình và thay đổi liên tục như cuộc sống vậy. Nếu coi “Cây đời” là một bức tranh phong cảnh thì đây là bức tranh phong cảnh duy nhất còn sống sót của Klimt mà có sử dụng chất liệu vàng.

Danae là bức tranh gợi tình nhất của Klimt. Trong thần thoại Hy Lạp, Danae là con gái của nhà vua Akrisios, thuộc Argos. Do lời tiên đoán rằng con trai của Danae sẽ giết mình, nhà vua nhốt Danae dưới hầm sâu. Song thần Zeus đã hóa mình thành một cơn mưa vàng để đến với nàng và từ cuộc hội ngộ thần thánh này, Danae đã sinh ra Perseus – một trong những vị anh hùng á thần xuất chúng nhất, người giết ác quỷ Medusa.
Trong Danae, Klimt vẽ nàng nằm trên một tấm thảm màu tím – màu của vương giả. Ba mảng màu đỏ nổi bật lên – mái tóc rực lửa, đôi môi hé mở, và hai núm vú – sự khêu gợi không thể chối cãi. Đôi mắt Danae nhắm nghiền, những ngón tay co quắp vì tận hưởng khoái lạc, và thay vì phủ kín bức tranh bằng vàng thì Klimt tập trung cho dòng suối vàng chảy tràn giữa hai chân nàng. Danae nằm co như một hài nhi trong bụng mẹ, phải chăng Klimt đã cố tình chạm vào bản chất đàn ông luôn yêu thích vẻ yếu đuối và ngây thơ của người phụ nữ. Nếu không nhờ tài năng của Klimt mà bỏ đi yếu tố nghệ thuật thì bức tranh Danae xứng đáng làm hình mẫu cho những bức ảnh “người lớn” ở thế kỉ 21.

Danae là một đối tượng rất được các họa sĩ thập niên 1900 ưa thích vì câu chuyện về nàng bao hàm những ẩn dụ về vẻ đẹp, tình yêu, sự phi thường của các vị thần. Trong hình, tượng Danae của Rodin

Danae của Titian – tư thế chân của nàng rất giống với chân của Danae – Klimt. Sự trùng hợp vô tình hay cố ý?

Một bức tranh tương tự là “Water Snakes” – những cô gái đẹp hóa thành những con rắn nước uốn éo mềm mại.


Mẹ và con
Mặc dù những tranh chấp với các thành viên đã  khiến Klimt rời bỏ nhóm Art Nouveau của Áo, song những tác phẩm trên cho thấy Art Nouveau không bao giờ… rời bỏ Klimt. Dù Klimt đã tìm kiếm cảm hứng từ cổ điển Hy Lạp, Ai Cập, Byzantine, và Minoan, thì Art Nouveau vẫn là chất dung hòa tất cả những dòng chảy khác nhau đấy để tạo ra một Klimt độc nhất vô nhị. Những tác phẩm của ông được coi là bộ mặt của Art Nouveau Áo. Đi qua những trận mưa vàng của Klimt, liệu các bạn đã cảm thấy Art Nouveau quyến rũ hơn chưa?

NGƯỜI ĐÀN BÀ BẰNG VÀNG (WOMAN IN GOLD)

Đúng sáu mươi năm sau cuộc vượt thoát khỏi tay quân Đức đến Mỹ tị nạn, năm 1998 bà Maria Bloch-Bauer tìm cách đòi lại bức tranh chân dung người dì Adele xinh đẹp của mình được vẽ bởi họa sĩ Gustav Klimt năm 1907. Bức tranh vốn được treo ở tư gia tại Vienna rồi bị quân Đức đến chiếm nhà cướp đi khi cả gia đình bà bị xua vào trại tập trung năm 1938. Trải qua những biến cố của chiến tranh thế giới thứ hai, bức tranh dừng chân tại bảo tàng quốc gia Vienna và được coi là báu vật của nước Áo. Nàng Adele thành Vienna nổi tiếng không kém gì nàng Mona Lisa ở Florence, Italy. Dưới khung tranh có gắn biển ghi hàng chữ: ‘Bức tranh được ông bà Adele và Ferdinand Bloch-Bauer hiến tặng’.
Điều đó làm cho Maria nổi giận. Mới đầu bà đồng ý cho bảo tàng được giữ bức tranh vĩnh viễn nếu ghi chi tiết là bức tranh bị quân Đức cướp đi từ nhà Adele. Nhưng đề nghị này bị từ chối nên bà quyết định kiện đòi bức tranh. Bà nhờ người luật sư trẻ vào cuộc chiến pháp lý, khi nghe luật sư thốt lên: ‘Vụ này mà thắng thì bà sẽ giàu lắm’, bà Maria lúc ấy đã 78 tuổi sửng sốt:
“Cậu cho là tôi muốn đòi bức tranh là vì tiền ư? Tôi làm việc này để cho những người trẻ như cậu biết quá khứ, biết về những gì đã xảy ra với người Do Thái. Tôi muốn những ký ức về dì Adele của tôi sẽ sống mãi. Cái tôi muốn là công lý và sự công bằng. Trách nhiệm của tôi đối với những người đã khuất là phải làm rõ sự thật. Người ta muốn chiếm cái không phải của mình nên người ta mới phải gian dối.”

Một mình đi kiện chính phủ Áo đã vô cùng gian nan, vụ việc lại càng trở nên khó khăn hơn cho Maria khi bên Áo lôi trong lưu trữ ra chúc thư của Adele viết về nguyện vọng muốn bức chân dung được treo ở bảo tàng cho công chúng chiêm ngưỡng sau khi bà mất. Vụ kiện tưởng như đã đi đến hồi kết và Maria phải bỏ cuộc. Nhưng qua nhiều lần ra tòa và xem xét các chứng cứ, tòa thấy tuy Adele đúng là có nguyện vọng ấy và bà đã mất năm 1925, nhưng Adele chỉ là nhân vật của bức tranh, chứ không phải người chủ sở hữu bức tranh. Người chủ thực sự của bức tranh là ông Ferdinand chồng bà, vì ông là người đã mời họa sĩ vẽ chân dung vợ mình và ông cũng là người đã bỏ tiền trả công họa sĩ. Vợ mất sớm, ông bà không con, nên ông di chúc để lại toàn bộ gia sản cho cháu gái là Maria. Bởi những chứng cứ khẳng định không thể nghi ngờ rằng Maria là người thừa kế duy nhất, tòa xử cho bà thắng kiện và chính phủ Áo phải trả lại bức tranh cho bà.

Năm 2006, bức tranh rời nước Áo để về với Maria. Khi bức tranh trên đường ra sân bay sang Mỹ, người dân Vienna đứng chật hai bên đường vẫy chào tiễn biệt Adele, là sự kiện được ghi trong lịch sử hội họa khi nhắc tới sự nghiệp của danh họa Gustav Klimt. Bức tranh sau đó được bảo tàng Neue Galerie ở New York mua với giá 135 triệu đô la và được treo ở vị trí trang trọng ở đây. Phải chăng đó cũng là một lý do nữa để Adele được biết tới là 'Người đàn bà bằng vàng' (Woman in Gold), còn họa sĩ chỉ gọi bức tranh là 'Chân dung Adele Bloch-Bauer I' (Portrait of Adele Bloch-Bauer I). Cuối cùng bức tranh cũng được treo ở bảo tàng cho công chúng chiêm ngưỡng và cũng thỏa điều mà dì Adele của Maria hằng mong ước.

Bà Maria đã dùng số tiền đó đóng góp xây dựng và duy trì bảo tàng tại Los Angeles về Holocaust - Chứng tích diệt chủng Do Thái thời Đức quốc xã và đóng góp cho các cơ sở công ích và từ thiện tại California. Cuộc sống của bà không có gì thay đổi, bà vẫn sống trong ngôi nhà nhỏ ở Los Angeles mà vợ chồng bà đã mua trả góp từ trước đó mấy chục năm. Bà vẫn hàng ngày đứng bán tại một tiệm thời trang trên phố cho đến năm 2011 khi bà mất ở tuổi 87.

(từ Kim Chi Fb)


GUSTAV KLIMT (1862-1918) - HS TRƯỜNG PHÁI TƯỢNG TRƯNG ÁO.

Gustav Klimt was an Austrian symbolist painter and one of the most prominent members of the Vienna Secession movement. Klimt is noted for his paintings, murals, sketches, and other objets d'art.
 
Periods: Symbolism, Modern art, Vienna Secession, Art Nouveau







VANDANBNN st/gt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét