Hiện tượng thơ Lý Phương Liên những năm 70 của thế kỉ XX, tôi chỉ được biết qua sách vở, qua những câu chuyện kể của những người cùng thời với bà và tôi cũng chỉ biết được qua những lời giảng của thầy tôi (TS. Trần Văn Phương - Đại học Quy Nhơn). Điều đặc biệt, những tiết giảng của thầy ở phần Văn học hiện đại giai đoạn 1945-1975 và văn học giai đoạn sau 1975; ở chuyên đề nào thầy cũng đều có nhắc đến tên nhà thơ này. Tôi lấy làm lạ và càng gây cho tôi sự tò mò về tiểu sử và lai lịch của một nhà thơ từng gây tiếng tăm nhưng cũng còn nhiều điều chưa rõ. Thầy tôi còn nói thêm rằng: Khi bài thơ Trò chuyện với Thúy Kiều của Lý Phương Liên ra đời đăng trên Báo Văn nghệ (1970) và bị quy kết, có người lại cho rằng bài thơ này là của người nào đó trong nhóm Nhân văn giai phẩm viết và để tên ngẫu nhiên Lý Phương Liên như thế; chứ không có một nhà thơ Lý Phương Liên bằng da, bằng thịt ngoài đời thật…
Với những tình tiết nửa hư nửa thực, cộng với sự tò mò, yêu mến, kính trọng một nhà thơ tài hoa nên tôi đã cất công tìm hiểu về thơ cũng như cuộc đời thực của bà. Thơ Lý Phương Liên có thể kể ra một số bài thơ hay như: Lời ru với anh, Ca bình minh, Em mơ có một phiên tòa… được bạn đọc yêu mến (từng chép vào sổ tay mang theo đến các chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước). Nhưng nếu được chọn bài thơ hay nhất của bà, theo chủ quan cá nhân tôi, tôi sẽ chọn bài Trò chuyện với Thúy Kiều (bài thơ này lúc đầu có tên là Nghĩ về Thúy Kiều, đăng trên Báo Văn nghệ năm 1970). Tôi chọn bài này là hay nhất bởi nhiều lẽ: đây là bài thơ “lạ”- chứa đựng tình yêu thương con người một cách mãnh liệt nhất, chân thành nhất, ở đó người viết bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình một cách trung thực, thành tâm như chính con tim mách bảo. Trước những tổn thất lớn của gia đình, trước nỗi đau hiện tại Lý Phương Liên đã trải lòng mình với mong ước được chia sẻ, cảm thông, thấu hiểu hơn về tình đời, tình người. Do vậy bài thơ giàu tính triết lý và giàu giá trị nhân văn. Với Trò chuyện với Thúy Kiều đã cho thấy đây là một giọng thơ lạ, trong trẻo, dũng cảm cất lên một cách hồn nhiên- lời thơ giống như lời trò chuyện, lời nói hàng ngày, mang đậm dấu ấn cá nhân và không thể lẫn lộn với bất cứ một nhà thơ nào khác. Nhưng cũng chính bài thơ Trò chuyện với Thúy Kiều này mà đã gây bao hệ lụy cho chính nhà thơ và gia đình. Để rồi nữ sĩ tài hoa Lý Phương Liên “đi không ai biết, về không ai hay” suốt 40 năm qua. Và đây được coi là một hiện tượng đặc biệt của nền văn học Việt Nam hiện đại.Bài thơ dài Trò chuyện với Thúy Kiều là bài thơ có sức sống vượt thời gian. Ngôn ngữ cứ tuôn ra không ngừng nghỉ cũng như những suy nghĩ từ trong tâm can bà về nỗi đau, sự chiêm nghiệm, trăn trở, những triết lý về lẽ sống niềm tin và cả những mơ ước, hy vọng dự báo về tương lai- đất nước sẽ được hòa bình, nhân dân được sống yên vui:
Nhưng một điều chắc chắn phi thường/ Chúng ta sẽ lên bờ vào một ngày nắng đẹp.
Tôi còn nhớ ở bài Trò chuyện với Thúy Kiều, thầy tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần và tôi đã thuộc lòng những câu:
Hai trăm năm và chảy dài vô tận
Thúy Kiều ơi nàng sống tháng năm dài
Trái đất chúng mình cho đến hôm nay
Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi
Thời gian còn nửa ngày là đêm tối
Còn đồng tiền đổi trắng thay đen
Còn sắc tài bạc mệnh với hờn ghen
Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến
Còn những đất đai triền miên chinh chiến
Thúy Kiều ơi nàng sống tháng năm dài …
…………………………………………………..
Đời bao nhiêu sắc màu, bao cung bậc âm thanh
Sắc màu nào chẳng vẽ nên tranh
Cung bực nào chẳng thành thơ, thành nhạc
Đại dương nào ẩn trong màu nước biếc
Chẳng sóng ngầm, mắt bão với phong ba
Không có con đường nào toàn bóng mát và hoa
Không có vùng trời nào toàn chim hót
Không có cây khế vàng trong cổ tích
Kho báu cũng không, dù có mật khẩu vừng …
Những năm 70 của thế kỉ trước, ở thời buổi khó khăn chồng chất khó khăn, mỗi người tự nuôi sống bản thân mình đã là khó. Vậy mà với nhà thơ Lý Phương Liên không những lo cho mình mà bà phải cáng đáng với vai trò người trụ cột trong gia đình để nuôi 5 chị em. Trong vai trò của một người mẹ, một người cha, một người chị cả để chăm sóc, nuôi nấng, giáo dục đàn em nhỏ của mình. Điều ấy thật đáng nể phục vô cùng. Mà tâm lý con người ta khi khó khăn thường hay than vãn cũng là điều dễ hiểu. Than vãn rồi chán nãn, chùn bước, đầu hàng số phận mới là điều đáng sợ. Đằng này Lý Phương Liên dám nói những sự thật, đồng thời bà cũng đã có những triết lý sâu sắc về cuộc đời và những dự cảm về cuộc đấu tranh gian khổ của dân tộc, niềm tin tưởng chắc chắn vào tương lai- đất nước sẽ thống nhất, đất nước sẽ giành được độc lập. Ngay ở thời điểm năm 1970 mà bà có dự cảm như vậy thì đáng khâm phục quá. Chỉ có điều đáng tiếc rằng, bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử mà nó khó có thể “sống” bởi những yêu cầu nghiệt ngã của thời đại, với những ràng buộc về mặt tư tưởng, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Ở thời kỳ này, văn học phải có nhiệm vụ cổ vũ, động viên, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân ta, ghi nhận những chiến công hiển hách của các trận đánh, những thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ… Vì vậy, khi bài thơ Trò chuyện với Thúy Kiều (Nghĩ về Thúy Kiều) được đăng trên Báo Văn nghệ (1970) thì lập tức ngay sau đó đã bị phê phán, bị “đánh” tơi bời. Vì cho rằng Lý Phương Liên đau đáu tư duy về thân phận nàng Kiều, kêu than cho số phận mình, cho số phận của những người phụ nữ Việt Nam thời hiện đại, cho những điều bất công ngang trái, gieo mầm bi quan yếm thế làm nản chí người trai trẻ đang ra trận … Trong bài: “Dòng thơ trẻ cần mang những tình cảm và tâm hồn của thời đại” (Đăng trên Báo Nhân Dân ngày 29/12/1970), nhà thơ Hoàng Trung Thông đã kịch liệt lên án bài thơ Trò chuyện với Thúy Kiều: “Rắc rối, cầu kỳ trong diễn tả, yếu đuối, sướt mướt trong tình cảm, bi quan tăm tối trong tư tưởng. Lý Phương Liên hình như cũng muốn từ một cảnh ngộ riêng mà vươn đến sự trong sáng. Nhưng những gian nan, mất mát đè nặng trên người cứ được tô đậm lên mãi trong thơ, càng làm cho bài thơ chìm đắm trong xót xa, trong tiếng kêu rên, và nếu như tác giả muốn “thét lên”, thét lên nữa thì đó cũng chỉ là tiếng thét của sự bất lực. Tự minh vận cho hoàn cảnh Thúy Kiều đã là một chuyện không nên về lạc lõng, đặt vấn đề “định mệnh” ra để chống định mệnh lại là một tư tưởng lỗi thời. Tác giả nói “Tuổi hai mươi không tin vào định mệnh. Định mệnh là đối thủ tiến công”. Nhưng thực ra thì tư tưởng định mệnh đã như sợi dây vô hình trói chặt lấy người mình và tác giả cứ phải giãy giụa kêu lên thảm thiết với những nào “gõ cửa cuộc đời” (Cuộc đời nào?), những nào “tự mình giải phóng”, “tự cứu”, với thứ triết lý vu vơ “không ngọt êm mới là hạnh phúc”. Hình như tác giả đã đặt nhầm nơi và không thấy rõ hết bản chất của chế độ ta. Nghĩ về Thúy Kiều có một khoảng cách khá xa về tư tưởng và tình cảm với những bài trong sáng khác của Lý Phương Liên. Đó là một dòng đục đã chảy lẫn vào dòng suối thơ trong trẻo tươi mát của tác giả. Lý Phương Liên, qua bài Nghĩ về Thúy Kiều, chưa đặt mình trong hoàn cảnh chung của nhân dân và dân tộc, mà nâng mình lên tầm cao của cách mạng. Cái đau khổ của riêng cá nhân dẫu sao cũng chỉ là rất nhỏ so với sự hy sinh vĩ đại và sự anh hùng cao cả của nhân dân và dân tộc. Chỉ ngồi than thở với cảnh ngộ cá nhân thực tế là đã tự hạ thấp mình xuống”. Việc phê phán và quy kết như vậy tôi cho là hơi quá đối với một hồn thơ trẻ tài năng. Vì rằng trong Trò chuyện với Thúy Kiều, Lý Phương Liên than thở với số phận khổ đau, bất hạnh của gia đình mình, của chính mình cũng có nghĩa là bà đang khao khát và mơ ước về hạnh phúc. Vì không ai trên đời này không mong cầu hạnh phúc. Cầu mong hạnh phúc và đi tìm hạnh phúc là dấu hiệu nhận biết sự lành mạnh của mỗi người. Với tấm lòng của một con người vốn nặng nợ với đời, nhà thơ lại chạnh lòng với mảnh đời bất hạnh của Thúy Kiều, Đạm Tiên. Lòng lại đau khi nhân dân mình, dân tộc mình với cuộc mưu sinh đầy gian khó…
Trước khi được gặp Nhà thơ Lý Phương Liên, tôi cứ nghĩ rằng, sau tai nạn nghề nghiệp, bị cơn thác dữ về thơ những năm 70, bà đã im hơi lặng tiếng đến cả 40 năm trời thì chắc bà đã quên thơ, từ bỏ thơ. Nhưng cái suy nghĩ của tôi hoàn toàn sai khi tôi trực tiếp diện kiến với bà,được trò chuyện với một Lý Phương Liên bằng da, bằng thịt ở ngoài đời thật. Vậy là sự tò mò của tôi dần dần được làm sáng tỏ.Lần đầu tiên tôi gặp bà vào một ngày mùa hạ (năm 2012) giữa cái nắng bỏng rát, đầy gió bụi của Sài Gòn tại nhà riêng trên đường Ký Con, Quận 1. Và cũng lần đầu tiên tôi được đón nhận tình cảm đặc biệt chân thành và nồng hậu của vợ chồng thi sĩ Lý Phương Liên- Nguyễn Nguyên Bảy. Tôi và bà chưa được gặp nhau lần nào và đây là lần đầu tiên nhưng sao cái cảm giác hình như đã thân quen nhau từ trước, tình cảm thân thương ấm áp đến lạ. Tôi nhớ như in những lời bà tâm tình trò chuyện ngay lần đầu gặp nhau đó. Trò chuyện với vợ chồng thi sĩ Lý Phương Liên- Nguyễn Nguyên Bảy, tôi mới biết thêm khá nhiều điều thú vị về cuộc đời “lênh đênh chìm nổi” của vợ chồng bà cũng như những câu chuyện đời sống thường nhật và cả những gì liên quan đến văn chương thơ phú. Bà lần giở trong ngăn tủ những tờ báo có đăng thơ bà những năm 68,69,70 của thế kỉ trước cho tôi xem, những tờ báo theo thời gian đã hoen ố, cũ kỹ nhưng được bà cất giữ cẩn thận. Bà bảo đó là những kỷ niệm đẹp một thời, nó là những thứ bà cần phải lưu giữ. Gặp bà lần đầu tiên nhưng tôi đã quý bà và kính trọng bà. Tôi quý bà bởi sự khiêm tốn, một sự khiêm tốn đáng kính trọng, dù tên tuổi đã nổi tiếng một thời, thơ bà cũng đã sống được và khẳng định giá trị đích thực của nó với thời gian nhưng chưa bao giờ bà nhận mình là nhà thơ. Bà giãi bày: “Lý Phương Liên tôi, cha mẹ mất sớm, thất học, vì thế thơ tôi chỉ là đôi ba hoa cỏ, ghi chép lại chính cuộc đời mình, nào ngờ thành tiếng mõ cầu rung lên hỉ ái, và cũng là sấm sét nộ ố những năm 1970 và dài theo nhiều năm sau đó”. Thi sĩ Lý Phương Liên cũng từng khẳng định: “Thơ tôi chỉ là thơ học trò bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường, ăn may là do hoàn cảnh éo le đắng đời nên lấy được nước mắt của người đọc mà thành thơ. Tôi trở nên nổi tiếng có lẽ là cơ may, vậy thôi! Có biết bao nhiêu người tài hoa thời ấy, được học hành bài bản, được đào tạo qua các lớp chuyên môn thì tôi làm sao dám sánh với họ”. Cứ tưởng sau những năm sóng gió, khổ ải từ Hà Nội gia đình bà trôi dạt vào phương Nam sinh sống đến giờ chắc bà đã già và tiều tụy lắm rồi. Gặp bà, dù đã ở vào cái tuổi gần bảy mươi, đã trải qua bao lo toan nhọc nhằn cơm áo nhưng trông bà vẫn mang một nét lịch lãm, thanh tú, phúc hậu của một người con của đất Hà thành. Bây giờ bà đã là vợ, là mẹ, là bà. Con cái đã trưởng thành và có công việc ổn định. Người con trai lớn là đạo diễn - diễn viên điện ảnh; người con gái út là họa sĩ… Bà bảo ngay từ nhỏ, ông bà đã hướng các con là không đứa nào theo cái nghiệp văn chương thơ phú… Vì sợ rằng chúng nó cũng phải lao tâm khổ tứ và gặp tai ương như bố mẹ!
Lý Phương Liên đã từng tâm sự: “Tôi nín lặng với thơ suốt 40 năm nay vì lời nguyền bỏ thơ của Lý Phương Liên, chính tôi, không vì bất cứ sự đe dọa, trù dập hay bất cứ áp lực nào khác. Mọi hệ lụy xô đẩy chúng tôi đến bần hàn và cơ cực không liên quan đến bất kỳ cá nhân nào, quyền lực nào. Mọi ảo thực, tốt xấu tôi tự mình chịu trách nhiệm, không than oán bất kỳ ai, về bất cứ điều gì”. Sau 40 năm vắng bóng trên thi đàn, năm 2011 Lý Phương Liên xuất hiện trở lại bằng sự kiện bà cho ra đời tập thơ Ca bình minh. Tập thơ ra đời và được công bố rộng rãi đã tạo nên những hiệu ứng đặc biệt. Và một sự thật là có một Nhà thơ Lý Phương Liên bằng da, bằng thịt đang hiện hữu trên cuộc đời này. Điều may mắn và niềm hạnh phúc lớn lao đối với bản thân tôi là tôi đã được gặp, được trò chuyện với thi sĩ Lý Phương Liên. Càng vinh dự và đáng quý hơn là tôi đã được đồng hành cùng bà và chồng bà, nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy đọc chọn cho Bộ sách Thơ Bạn Thơ, Văn Bạn Văn do vợ chồng bà làm Chủ biên.
Gặp vợ chồng Lý Phương Liên, dù có bàn công việc gì đi nữa, ông bà vẫn luôn dành thời gian để nói về thơ, nói với tất cả bằng sự đam mê, thích thú; kể về những kỷ niệm, những dấu mốc, những bài thơ của ông bà lần đầu đăng báo và cả những hệ lụy của gia đình có liên quan đến thơ…Vì bạn hữu, vì tâm huyết với thơ mà hai vợ chồng phải bỏ ra nhiều công sức, thời gian, tiền bạc để thực hiện tâm nguyện tha thiết đau đáu cả một đời. Với gia đình ông, thơ có lẽ là duyên nợ, là người bạn tâm giao, là những gì máu thịt, là hơi thở, là những điều thiêng liêng nhất đối với cuộc đời mình. Vì lẽ đó mà bà đã khởi xướng và thực hiện ý tưởng : chọn thơ của bạn đọc để tập hợp in Tuyển thơ Thơ Bạn Thơ cho bạn đọc khắp mọi miền đất nước, kể cả kiều bào ta đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài. Thơ Bạn Thơ ra đời có nhiệm vụ tập hợp những bài thơ bị bỏ quên, bỏ sót hay vì lý do nào đó chưa công bố; những bài thơ gắn liền với những tên tuổi khá nổi tiếng, nó đã sống được trong lòng bạn đọc theo cùng thời gian và năm tháng, đến những bài thơ của những tác giả mới xuất hiện (dù họ chưa thành danh, bạn đọc có thể chưa từng đọc thơ họ) nhưng miễn là thơ hay thì được chọn. Tôi cho đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa và mang giá trị thời đại của vợ chồng thi sĩ Lý Phương Liên và Nguyễn Nguyên Bảy. Một việc làm, một nghĩa cử đáng quý, đáng trân trọng cần phải được ghi nhận và tôn vinh. Thực hiện công trình Bộ sách Thơ Bạn Thơ (đã in xong tập 3) và đồng thời tiếp tục thực hiện sách Văn Bạn Văn ( đang in tập 2), đó là thực hiện tâm nguyện cuối đời của vợ chồng thi sĩ Lý Phương Liên và Nguyễn Nguyên Bảy.
Dù tuổi đã cao, sức khỏe ngày một yếu dần nhưng bằng niềm tin, sự đam mê, “cháy” hết mình với văn chương mà vợ chồng bà hình như đã quên đi tuổi tác, bệnh tật. Mỗi lần sách in xong, ông bà đều thu xếp mọi thứ để tổ chức ra mắt, giới thiệu với bạn đọc cả nước…
Những ngày cuối tháng 7/2013, khi biết tin vợ chồng bà không được khỏe, tôi sắp xếp công việc và vội vàng về thăm ông bà. Như một đứa con xa trở về, tôi được ông bà dành cho những tình cảm đặc biệt. 5h sáng tôi đã có mặt tại nhà vợ chồng bà Lý Phương Liên ở Quận 1, dù bị bệnh nhưng ông bà vẫn thức dậy sớm để đón tôi. Sự chào đón nồng hậu đó làm cho tôi hết sức cảm động. Vào thăm được mấy hôm, vì có công việc gấp nên tôi phải sắp xếp để về lại quê.
Buổi sáng của một ngày cuối hạ, thời tiết chuyển mùa, Sài Gòn lại có những cơn mưa bất chợt nhưng Lý Phương Liên đã dậy sớm đội áo mưa đi chợ chuẩn bị mọi thứ cho bữa ăn sáng để kịp cho tôi về lại Phú Yên. Chào tạm biệt vợ chồng thi sĩ Lý Phương Liên tôi về quê để tiếp tục công việc của mình. Trước khi đi bà đã dặn tôi nhiều điều về cuộc sống, công việc, cách đối nhân xử thế… bằng tình cảm của một người đi trước, người đã từng nếm trải bao vị đắng cay của cuộc đời. Vợ chồng bà không sinh ra tôi, nhưng tôi coi ông bà như người cha, người mẹ thứ hai của mình. Tôi coi Nguyễn Nguyên Bảy là thầy, gọi ông là thầy, là một người thầy theo đúng nghĩa của từ này. Được tiếp xúc với bà và may mắn tôi được tham gia đọc chọn bài cho 2 bộ sách Thơ Bạn Thơ và Văn Bạn Văn mà vợ chồng Lý Phương Liên- Nguyễn Nguyên Bảy làm Chủ biên, tôi mới thấy trân quý và cảm phục vợ chồng thi sĩ Lý Phương Liên trên nhiều phương diện.
Tận đáy lòng mình, xin được cảm ơn những tình cảm mà vợ chồng bà Lý Phương Liên đã dành cho tôi, cảm ơn về những lần gặp gỡ hết sức ý nghĩa. Chúc ông bà mạnh khỏe và thực hiện thành công những tâm nguyện của mình!
theo Fb NGUYỄN HÒA
theo Fb NGUYỄN HÒA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét