Hồ Phú Hùng
VỊNH TAM TÀI: MỘT TRIẾT LÝ NHÂN BẢN TÂM LINH SIÊU TUYỆT.
Trong những sáng tác còn sót lại của Trần Vân, chúng ta tìm
thấy một bài thơ hết sức lạ lùng bằng chữ Nho có tên là Luận tam tài:Thiên địa
sinh ngô hữu ý vô / Vị sinh thiên địa nội hàm ngô/ Ngô thiên địa hiệp
tam tài lập/ Thiên địa ngô đồng nhất tự đồ/ Ngôi xuất địa thời thiên
chuyển động/ Thiên giao ngô tịch địa bao lô/ Địa thiên tải phúc ngô
sinh lạc/ Thiên địa hóa công ngô hữu hồ!
Bài thơ này đã được dịch sang quốc ngữ với tựa đề là Vịnh Tam Tài(*):
Trời Đất sinh Ta có ý không?Chưa sinh Trời Đất
có Ta trongTa cùng Trời Đất ba ngôi sánhTrời Đất in Ta một chữ đồng Đất
nứt Ta ra Trời chuyển độngTa thay Trời mở Đất mênh môngTrời che Đất chở Ta
thong thảTrời Đất Ta đây đủ hoá công.
Nương theo Vịnh
Tam Tài, chúng ta có
thể tìm hiểu về thế giới quan và nhân sinh quan của Trần Cao Vân. Theo thiển ý, Vịnh Tam Tài là một
viên ngọc quý giá, sáng ngời và trong veo trong kho tàng tư tưởng của dân tộc. Vịnh Tam Tài mang
đến cho chúng ta tinh thần và hơi thở của một thời đại đã qua.
Ngoài ra, bài thơ còn cho chúng ta cảm nhận được
tư tưởng Nhân bản Tâm linh thuần khiết nhất - một nét vô cùng đặc sắc
của nền triết li Viễn Đông.
Nương theo Vịnh
Tam Tài, chúng ta có
thể tìm hiểu về thế giới quan và nhân sinh quan của Trần Cao Vân. Theo thiển ý, Vịnh Tam Tài là một
viên ngọc quý giá, sáng ngời và trong veo trong kho tàng tư tưởng của dân tộc. Vịnh Tam Tài mang
đến cho chúng ta tinh thần và hơi thở của một thời đại đã qua. Ngoài ra, bài
thơ còn cho chúng ta cảm nhận được tư tưởng Nhân bản Tâm linh thuần khiết nhất - một nét vô cùng đặc sắc của nền
triết li Viễn Đông.
Khi so sánh nền triết lí Nhân bản Tâm Linh với các hệ
thống triết học và tôn giáo khác, chúng ta nhận thấy không ở đâu con người được
đề cao ngang hàng với trời đất như ở Viễn Đông. Theo quan niệm của Tây Phương
trước đây, con người là con của đấng thượng đế và chỉ là một vật thụ tạo,
Vì vậy, thời ấy nếu có người nào phát ngôn như ông thì chắc chắn sẽ bị
ghép tội phản nghịch và tính mạng khó được an toàn. Tại Ấn Độ, nơi xuất sinh
nhiều hệ thống triết học đồ sộ thì yếu tố con người vẫn bị xem nhẹ. Những đạo
sư của Ấn Độ chuyên tâm dồn mọi nỗ lực vào đời sống “giải thoát” cá nhân nên đã
lãng quên con người và xã hội.
Vào những thập niên cuối của thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX,
những tư tưởng gia Tây Phương đã bắt đầu khẳng định lại vị trí của con người
trong vũ trụ nhân sinh. Những nhà tư tưởng ấy muốn vượt thoát khỏi dòng tư
tưởng thâm căn cố đế trong truyền thống của mình, một hệ thống triết chuyên bàn
về những vấn đề không ăn nhập gì đến nhân sinh, quên hẳn con người đang hiện
hữu “ở đây và bây giờ”; vì vậy, đã có
một mùa triết học hiện sinh nở rộ trên vòm trời tư tưởng Tây Phương. Khi tìm về
cội nguồn của tư tưỏng Tây phương trước thời Socrate, ba khuôn mặt nổi danh
nhất của Triết học Hiện sinh cận đại của Đức là Nietzsche, Jaspers và Heidegger
vô tình tiếp cận và hội thông với truyền thống Nhân bản Tâm linh của Đông
phương. Họ nhận thấy con người Tây Phương đương thời đã bị vong thân và vong
bản bởi những thế lực siêu hình, tôn giáo, chính trị và xã hội. Vì lẽ ấy, những
triết gia này đã gióng lên tiếng chuông báo động để thức tỉnh và cứu nguy con
người Tây Phương ra khỏi sự sụp đổ, phá sản của tư tưởng Tây Phương từ triết
gia Socrate trở về sau. Họ đã thành công hay thất bại? Đây không phải là mục
đích của bài viết này, người viết chỉ muốn nói rằng, trong lúc những tư tưởng gia
nói trên đã cố gắng đưa ra một thông điệp cho giới trí thức của họ suy tưởng,
thì tại một xứ sở lạc hậu về mặt vật chất và đang còn chìm trong vòng nô lệ của
thực dân đã nảy sinh một nhà cách mạng, nhà tư tưởng từng đề cao con người một
cách thấu đáo trong bài thơ Vịnh Tam Tài.
Tại sao người viết dám đại ngôn về tư tưởng Trần Cao Vân
trong khi ông không để lại một hệ thống triết học tầm cỡ nào cả? Truyền thống Nhân bản Tâm linh của Đông
Phươngđã sản sinh nhiều nhà tư tưởng khác hẳn với truyền thống của Tây Phương.
Những nhà tư tưởng Đông Phương (nói cho đúng họ là những nhà đạo học Đông
Phương) rất ít lí luận và diễn giải. Trước tác của họ thông thường chỉ là vài
bài thơ, vài đoản văn, hoặc một vài câu kệ; người đọc, người nghe theo đó mà
chiêm nghiệm và suy ngẫm. Chính đời sống đạt đạo và viên mãn của họ đã minh
chứng cho một nền triết học thâm sâu và sống động. Các vị ấy không phải là
những triết gia chỉ biết luận lí suông, họ chính là những bậc thánh triết, hiền
triết hay là triết nhân trong cõi nhân sinh. Những nhà tư tưởng ấy luôn đem hết
tâm lực để phục vụ cho đời sống tâm tư cũng như cuộc đời hành động của chính
mình.
Lão Tử từng nói: “道可道, 非常道; 名可名, 非常名- Đạo khả đạo, phi thường đạo;
danh khả danh phi thường danh” (Đạo có thể diễn giải được không phải là đạo
thường hằng; tên có thể định nghĩa được không phải là tên thường hằng) Đạo Đức Kinh.
Khổng Tử thì: “子曰 予欲無言... 天何言哉, 四時 行焉, 百物生焉, 天何言哉- Tử viết: Dư dục vô ngôn...
Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, bách vật sinh yên, thiên hà ngôn tai?” (Khổng tử nói: Ta không muốn nói gì cả... Trời
có nói gì đâu? Bốn mùa qua lại, vạn vật sinh trưởng, Trời có nói gì đâu?) Luận Ngữ.
Phật giáo Thiền Tông thường lưu truyền bài kệ:
不立文 字教外 别傳直 指人心 見性成佛
“Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm.
Kiến tánh thành Phật”.(Chẳng lập văn tự. Truyền riêng ngoài sự giảng
dạy. Chỉ thẳng tâm người. Thấy tánh thành Phật).
Những bậc thầy ở Đông phương chỉ gợi mở và chỉ dẫn cho đệ
tử thấy con đường đạo lí, các môn đệ phải tìm tòi, suy tưởng và tự thực hiện.
Đó chính là nền tảng trong sự trao truyền minh triết tại Đông phương.
Di sản Vịnh Tam Tài của Trần Cao Vân
đề cập ở trên đã cho chúng ta cảm nhận được những gì giữa đời sống điên đảo vô
thường của một kiếp nhân sinh? Khi chúng ta nghiền ngẫm, từng câu, từng câu một
thì sự thật sẽ bùng vỡ và làm hiển lộ những tia sáng đặc biệt, diệu kì.
Trời Đất sinh Ta có ý không?
Trời Đất cũng như Ta chẳng ai sinh ra ai cả. Con người vốn
dĩ an nhiên tự tại, không nô lệ cho bất cứ thế lực thần quyền, thế quyền cũng
như vật quyền nào cả. Sự có mặt của ta là đầy dủ, là cùng đích tự thân, là tự
tồn tại rồi. Có Trời, có Đất thì cũng có Ta, thế thôi! Không một ai có quyền
nhào nặn ta theo một ý riêng tư nào cả, nhưng tiếc thay, con người đã bỏ đi sự
tự do và tự trói mình vào “xiềng xích”.
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Dù chưa sinh ra nhưng ta cũng đã tham dự cùng Trời Đất.
Điều này mang một ý nghĩa tâm linh đích thực, chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm
điều này bằng sự lâng lâng siêu thoát của tâm hồn chứ không thể giải thích bằng
luận lí của trí não. Cái Ta ở đây không phải là cái ta nhỏ bé của đời sống xác
thân, nhưng là Đại ngã Tâm linh bất biến
trường tồn.
Trong thời gian ẩn dật tu hành tại chùa Cổ Lâm, huyện Đại
Lộc, Quảng Nam, chắc chắn Trần Vao Vân đã nghiền ngẫm kinh, luận của Phật giáo
và hành trì thực sự. Vì thế, tuy là một nhà Nho nhưng đạo Phật cũng ảnh hưởng
sâu đậm vào nhân sinh quan của ông.Trần Cao Vân cũng như phần đông Nho sĩ thời
bấy giờ thường sống theo tinh thần Tam giáo: Nho - Phật - Lão. Gặp lúc thời
cuộc bế tắc, trong lúc chờ đợi thời cơ để thực hiện việc an bang tế thế, họ
thường tìm về Phật giáo và Lão Trang để giải thoát và di dưỡng tính tình.
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Hình ảnh con người ở đây vô cùng đẹp đẽ, uy nghi, dám sánh
ngang cùng Trời Đất. Triết lí nhân bản thể hiện quá rõ ràng, con người mạnh mẽ
cùng trời đất chứ đâu có yếu mềm để rồi phải nép mình quỳ luỵ dưới thế lực của
Trời (tôn giáo thần quyền) và Đất (thế lực của vật chất).
Tuy vậy, con người chúng ta phần đông quả là thiếu sự tự
tin, người theo tôn giáo thần quyền thì cúi mọp dưới chân đấng vô hình nào đó,
kẻ không theo tôn giáo thì tôn thờ thế lực của tiền bạc, danh vọng. Chúng ta
không còn tin vào chính mình nữa mà chỉ tìm lấy những giá trị hư ảo bên ngoài
để tô vẽ và nâng cao vị trí mình trong xã hội. Tự thân con Người đã có một giá
trị đích thực rồi, không cần phải quy chiếu vào bất cứ thứ gì để tạo thêm giá
trị ngoài cái Ta nữa. Cái Ta này không phải là cái tôi nhỏ bé, phàm tục mà phần
đông con người thưòng lệ thuộc vào nó. Trái lại, cái Ta này hiên ngang, lẫm
liệt, nó đã vượt lên trên tất cả những nhỏ nhoi, phù phiếm của thế cuộc mà tan
hoà vào cõi đạo, huyền vi, lồng lộng, thênh thang.
Trời Đất in Ta một chữ đồng
Trong đạo Nho, ngoài phần thế học (Hình nhi hạ), còn có
phần tâm học uyên nguyên (Hình nhi thượng) nữa. Tâm học của Nho gia có nét
tương đồng dị biệt với nhà Phật và Lão Trang. Mạnh Tử, người mở đầu cho trường
phái Tâm học đã nói: “萬物皆備於我. 反身而成, 樂莫大焉- Vạn vật giai bị ư ngã. Phản
thân nhi thành, lạc mạc đại yên” (Vạn vật đầy đủ nơi ta. Trở vào mà thực hiện
để tựu thành thì không gì vui hơn) Mạnh Tử.
Lục Tượng Sơn, người đại diện cho Tâm học đời nhà Tống của
Trung Quốc cho rằng:
“宇宙便是吾心, 吾心便是宇宙- Vũ trụ tiện thị ngô tâm,
ngô tâm tiện thị vũ trụ” (Trời đất vạn vật tức là tâm ta, tâm ta
tức là trời đất vạn vật” Tượng Sơn toàntập.
Vương Dương Minh, một nhân vật trác việt nhất, kiệt xuất
nhất của Tâm học đời nhà Minh cũng từng phát biểu: “夫人者天地之心, 天地萬物本吾一体也- Phù nhân giả thiên địa
chi tâm, thiên địa vạn vật bản ngô nhất thể dã” (Người là tâm trời đất, trời đất vạn vật vốn
cùng một tính chất là vậy ) Truyền Tập Lục.
Dịch giả bài Vịnh Tam Tài rất đồng cảm với tiên sinh Trần
Cao Vân nên đã diễn dịch câu thơ này thành một câu nói rất mộc mạc và bình dân “Trời Đất in Ta một chữ đồng”. Khẩu
ngữ của người dân xứ Quảng thể hiện đậm nét ở nơi đây, “in” tức là giống y vậy.
Ta và Trời Đất có gì khác nhau về tính chất siêu linh đâu, vì thế có gì phải sợ
hãi. Trời Đất còn chưa sợ huống gì những thế lực thần quyền, thế quyền hay vật
chất. Dịch giả của Vịnh Tam Tài đã kiến giải
phần thâm sâu của đạo Nho trong một ngôn ngữ bình dân và dễ hiểu nhất.
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta và Trời Đất cùng xuất khởi một lần, vậy thì đâu ai kém
ai. Giữa trời đất bao la, hình ảnh con người oai phong quá! Con người được đề
cập ở đây là bậc triết nhân quân tử, mang trong mình “khí hạo nhiên” tràn khắp vũ
trụ chứ không phải là thứ tiểu nhân thấp hèn, yếu kém.
Theo truyền thuyết của Đông phương, khi thánh nhân ra đời
thì thiên nhiên có những hiện tượng kì dị, lạ lùng. Hiện tượng thường gặp nhất:
mặt đất thì rung chuyển mạnh, bầu trời thì sấm chớp vang rền. Ở đây, có lẽ tác
giả đã ví mình như một bậc thánh trí hiện ra để cứu đời trong bước ngoặt đầy
khó khăn của lịch sử nước nhà.
Ta thay Trời mở Đất mênh mông
Hoài bão và chí hướng của tiên sinh được thể hiện rõ nét
trong câu thơ này. Thật ghê gớm, thánh nhân có thể thay trời để mở đất, để “thế
thiên hành đạo - thay trời mà hoằng dương đạo lí”.
Bản chất con người xứ Quảng luôn ngang tàng, gân guốc, thẳng thắn. Người quân
tử xứ này được hàm dưỡng trong lò Khổng Mạnh càng lâu bao nhiêu thì tính cách
ấy lại càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Họ đã thực hiện đúng châm ngôn: “冨貴不能淫, 貧賤不能栘, 威憮不能屈, 此之謂大丈夫- Phú quý bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” (Giàu có không phóng đãng, nghèo hèn không
thay đổi ý chí, không khuất phục trước sức mạnh, đó mới chính là bậc đại trượng
phu) Mạnh Tử.
Tính cách nhà cách mạng, nhà tư tưởng Phan Châu Trinh cũng
vậy, cụ không bao giờ biết cúi đầu khuất phục trước bạo lực, cường quyền.
Trong lòng các vị ấy đều đầy ắp chữ nghĩa của thánh nhiền nhưng hành động thì
vô cùng thực tế, các cụ sẵn sàng giũ bỏ danh vọng để đi làm cách mạng. Với lí
tưởng vì dân, vì nước, họ coi chuyện vào tù ra tội hay cái chết nhẹ như lông hồng.
Những vị ấy ít trước ngôn lập thuyết, nhưng chúng ta chỉ cần xem quả là biết
cây. Cây triết lí nhân sinh của họ đã qua được thử thách và vững chãi giữa
phong ba bão tố của cuộc đời.
Trời che Đất chở ta thong thả
Đã có trời che đất chở thì vô cùng thong dong tự tại và
thảnh thơi, có lo nghĩ gì nữa đâu. Trời đã che và đất đã chở thì sợ gì mà không
thực hiện được đạo “nội thánh ngoại vương”. Bởi ý thức được địa vị cao cả của
mình trong vũ trụ, họ an nhiên vui sống và ung dung gánh vác việc đời nhưng
lòng không xa rời đạo lí: “君子坦蕩蕩- Quân tử thản đãng đãng” (Người quân tử thường vui vẻ) Luận Ngữ.
Trời Đất Ta đây đủ hoá công
Sức sáng tạo của con người thật vĩ đại, không thua gì trời
đất cả. Không có ta thì Trời Đất chưa đủ là hoá công. Phải có ba bực tài (Thiên
Địa Nhơn) thì vũ trụ này mới hiện hữu. Người xưa đã từng nói về con người: “人者其天地之徳, 陰陽之交, 鬼神之會, 五行之秀氣- Nhân giả kì thiên địa chi
đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí” (Con người là cái đức của trời đất, chỗ giao
nhau của âm dương, nơi gặp gỡ của quỷ thần, là khí đẹp của ngũ hành) Lễ Kí.
Nếu đem ra so sánh với con người trong Vịnh Tam Tài thì cách định
nghĩa trên đây của người xưa xem ra vẫn còn thua xa con người mà Trần Cao Vân
đã đề cập đến. Ông đã diễn tả một quan niệm rất đẹp đẽ và cao cả về con người
trong vũ trụ mênh mông. Không một nơi nào trên trái đất địa vị con người được
đề cao như vậy!
Vịnh Tam Tàicó thể cho chúng
ta thấy được rằng, Trung Thiên Dịch là một học thuyết có thật nhưng đang còn
trong thời kì thai nghén. Bản thân Trần Cao Vân cũng nói rõ trong câu đối phúng
điếu nhà cách mạng Châu Thượng Văn vào năm 1908:
“Ta có tiếc sống đâu, ngặt vì Trung Thiên Dịch mới mở đầu, Dũ Lý
bảy năm chưa kịp diễn.
Người hẳn theo nghĩa đây nhất kinh muôn đời còn giữ chặt. Thú
Dương nghìn thuở hãy còn nghe. (Huỳnh
Thúc Kháng dịch).
Vịnh Tam Tài tuy chỉ vỏn
vẹn 56 chữ, nhưng nó cưu mang cả một nền triết lí nhân sinh sâu thẳm. Không
biết nó có thể là cốt tuỷ của Trung Thiên Dịch chăng?
Nhà cách mạng, nhà tư tưởng Trần Cao Vân đã sống trọn vẹn
triết lí sống của mình trong bài thơ Vịnh Tam Tài cho đến hơi thở
cuối cùng. Trước kẻ bạo quyền, cái chết đã không làm ông sợ hãi chút nào; trái
lại, ông đã an nhiên tự tại đi vào cõi vĩnh hằng. Trước một trí tuệ và nhân
cách cao cả như vậy, chúng ta chỉ biết cúi đầu khâm phục
………………………………………………..
(*) Bản dịch Vịnh Tam Tài do Hành Sơn
-Lương Vĩnh Thuật thực hiện.
vanhoanghean.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét