Khi đọc những câu thơ trong bài Không đề gửi mùa đông người
ta nhớ đến ngay nhà thơ Thảo Phương, bài thơ là tiền đề cho bài thơ
“Nỗi nhớ mùa đông” sau đó được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc thành ca khúc nổi
tiếng Nỗi nhớ mùa đông.
Dường như ai đi ngang cửa,/ Hay là ngọn gió mải chơi?/ Chút nắng
vàng Thu se nhẹ,/ Chiều nay, cũng bỏ ta rồi./ Làm sao về được mùa Đông?/ Chiều
Thu - cây cầu… đã gãy./ Lá vàng chìm bến thời gian,/ Đàn cá - im lìm - không
quẫy./ Ừ, thôi… mình ra khép cửa,/ Vờ như mùa Đông đang về!
Đọc những câu thơ trên cũng như nghe lời bài hát người đọc hình
dung ra Thảo Phương là con người giàu lòng trắc ẩn, người phụ nữ làm thơ với
những nỗi buồn, nỗi lo toan vất vả. Ở đó, là niềm tin yêu, sự hoài vọng; ở đó
là những triết lí, chiêm cảm sâu sắc về kiếp người, cõi người… Dù cuộc đời
không mấy suôn sẻ, một mình với vai trò là người trụ cột trong gia đình, phải
cáng đáng nuôi năm người con. Tưởng hoàn cảnh nghiệt ngã ấy sẽ làm cho chị gục
ngã, nhưng khôngThảo Phương là người thi sĩ biết vượt lên trên mọi hoàn
cảnh, chị đã vắt kiệt sức mình để sống và viết.
Đọc thơ Thảo Phương, người đọc nhận ra đó là tiếng thơ của một
người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Dường như mọi khổ đau, mất mát,
tổn thương đều ập đến và bủa vây chị. Nên thơ Thảo Phương đầy ắp những nỗi niềm
khắc khoải, cô đơn trong nỗi buồn vô tận. Thi sĩ Thảo Phương cho rằng: Người
đàn bà do đàn ông sinh ra và ở họ sẽ gánh chịu bao trái ngang, sầu
thảm, chống chếnh, không phút bình yên: Người - đàn - bà - do - đàn -
ông - sinh - ra/ Mãi chơ vơ giữa chợ đời chộn rộn/ Người đàn bà do
đàn ông sinh ra/ Suốt đời chống chếnh.../ Không kịp hỏi
ta.../ Không kịp hỏi chàng..!/ Ta lạnh lắm - và ta cô đơn
lắm...
Nhà thơ đổ lỗi cho định mệnh và thảng thốt thét gào: Hỡi
định mệnh - Trả ta về nơi máu thịt sinh ta..!
Tuy vậy, chị vẫn còn niềm tin yêu và hi vọng với cuộc đời này.
Thảo Phương đã sống, đã yêu đến tận cùng với một trái tim đa cảm; biết chấp
nhận và vượt qua những khó khăn, trở ngại trên mọi bước đường đời. Nhà thơ tự
nhận mình: Ta tuổi Sửu - cầm tinh con trâu/ Sinh ra để kéo cày…
Thảo Phương có linh cảm, đời chị luôn luôn và là cả một chuỗi
dài những tháng ngày mệt lả, đơn chiếc. Tuy vậy, điều đó không dập tắt được
những ước mơ: Ta kéo chiếc cày bằng vàng trên cánh đồng trăng/ Những
hạt cườm từ vai ta lăn vào lòng đất/ Và ánh trăng bỗng dưng xanh biếc/ Những
hạt cườm bật lá - Lá đong trăng…/ Và sao băng vụt tỏa ánh hào quang/ Và ngọn
gió khoan thai đưa nhạc/ Ta gối chiếc đầu trên chiếc cày vàng/ Mơ gặt lúa một
lần trên cung Quảng (Sinh nhật).
Trong cái nhìn về thời gian, Thảo Phương bộc lộ nhiều trăn trở,
nghĩ suy và day dứt. Nhà thơ tìm về quá khứ và mơ ước về tương lai để được an
ủi, vỗ về. Suốt cuộc đời nhà thơ đi tìm hạnh phúc trong những dằn vặt và suy
tư. Càng chua xót hơn khi đối diện với thực tế, với nỗi cô độc của đời
mình. Em đi tìm nơi mùa thu hoài vọng/ khi lá lìa cành thảng thốt rung
tiếng chuông vàng nhạt/ và lững thững mây bay/ mây bay…/ Em đi tìm ly rượu nho
nồng nàn/ nơi bàng bạc sông Ngân ngưng chảy/ xót xa những ngôi sao mồ côi/
rụng…!/ Em đi tìm/ đốm hoa vàng run rẩy mùa thu xưa/ chốn nào nơi nào … ta
qua?/ Em đi tìm … những ngôi sao lặng lẽ khóc/ và đêm đêm lá vẫn lìa cành buông
tiếng chuông vàng nhạt trên những dấu chân ta đã dìu nhau đi…/ Em đi tìm nơi
con tim không ngủ/ Trong mùa thu mơ (Em đi tìm…)
Giữa dòng thời gian bất tận ấy, Thảo Phương thấm thía nỗi buồn
của một tâm hồn lẻ loi, mệt lả, cả một trời trống vắng, hoang hoải: Tôi
ngoài tôi đuổi bắt lấy chính tôi/ Có tiếng hú từ hồng hoang vọng tới/ Tôi lạc
mình trong ngàn mắt ngàn tay/ Trong tiếng mõ cầm canh đêm rỗng// Tôi cười tôi
bất lực dỗ dành tôi/ Thời gian khẽ ru lời tha thiết/ Thời gian cất lời ca khắc
nghiệt/ Lời ca trôi như mây…// Trôi về đâu - về đâu…/ Thời gian cất lời ca khắc
khoải// Từ từ tôi bước ra/ Ngả mình trên lời ca/ Trôi mãi… (Lãng du)
Bao mơ ước, khát khao nhưng rồi kết cục chỉ là như giấc chiêm
bao:Tất cả dường như giấc chiêm bao/ Ta đã yêu - đã
yêu... và hạnh phúc./ Kìa đàn chim bỗng giăng ngang hoàng hôn/ Tiếng thưa
thớt rung rinh làn khói biếc/ Còn mình ta - mình ta...mình ta!/ Và trái tim
rung rung buồn nhớ.// Tất cả dường như giấc chiêm bao.../ Thôi mình
tan vào tranh Gauguin/ Làm thổ dân của màu xanh vĩnh cửu... (Tất cả
dường như giấc chiêm bao)
Thật bẽ bàng và xót xa cho nhà thơ.
Thảo Phương thể hiện một người thơ hồn hậu. Dù cuộc sống không
được đủ đầy, một thân một mình phải vất vả nuôi năm đứa con. Nhưng Thảo Phương
đã sống và yêu hết mình bằng trái tim thiêng liêng của tình mẫu tử, trái tim
của người đàn bà đã bị tổn thường. Chị vẫn bao dung, nhân ái: Em chân
đất quỳ trên cỏ xanh/ Cầu nguyện cho giấc mộng yên lành/ Không còn đó
- Mà anh vẫn đó (Với mình).
Nhà thơ Thảo Phương đã từng bước vượt qua những khắc nghiệt và thử thách của
cuộc đời. Từ khi phát hiện mình bị bệnh hiểm nghèo chị vẫn cố giấu - ngay cả
bạn bè và những người thân yêu nhất của chị. Chị vẫn gắng sức làm việc, vẫn
viết đều đặn và chăm sóc các con của mình. Nhà thơ Phan Ngọc Thường Đoan, một
người bạn thân thiết với Thảo Phương cho biết: “Chị Phương biết mình bị bệnh từ
hai năm trước nhưng luôn dặn người thân đừng cho ai biết, vì miệng đời lắm khi
cay nghiệt trước nỗi đau của người khác. Lúc biết mình không còn sống được bao
lâu nữa, Phương mới cho phép người thân loan báo tin này. Phương sống thật gần
như là “bản năng” với chính con người của mình, không bao giờ biết “lấy hoa đắp
lên mặt”. Bản năng lớn nhất của Phương là tình thương yêu con cái. Dù lận đận
trong chuyện gia đình, nhưng Phương lúc nào cũng yêu quý con mình hết cỡ”.
Con người có thể phải mang trên mình những nỗi đau, nỗi bất
hạnh, sự xô đẩy của hoàn cảnh; hạnh phúc có thể dễ dàng tan biến để rồi nỗi
buồn lại cắn xé con tim nhưng thi sĩ Thảo Phương vẫn sống trọn vẹn, vắt kiệt
sức mình với tình yêu và cuộc đời. Chị đã sống và viết đến cạn cùng. “Chị đã
đi qua cõi trần ai này bằng tất cả nỗi vất vả không giới hạn của một người mẹ
đơn chiếc và bằng tất cả đam mê đến tận cùng của một nhà thơ sống hết mình! Chị
đã lấy sự chân thật để sống với mình và đối đãi với người” (Nhà thơ
Nguyễn Thị Ánh Huỳnh).
Đi qua những tháng năm thăng trầm, Thảo Phương sâu sắc nhận ra
rằng: Ngụ nơi lồng ngực em-trái tim Đàn ông/ Bất cần-ham
hố…/ Trái tim nâng bầu rượu và gây sét giữa trời quang// Ngụ nơi lồng
ngực em-trái tim Đàn bà/ Hiến dâng-chiếm đoạt/ Trái tim biết đỏ
mặt…//…/ Anh nhìn em bằng cái nhìn hủy diệt/ Em vỡ tan cùng hai trái
tim/ Quá tải.
Thơ Thảo Phương thể hiện nỗi lòng khắc khoải của nhà thơ với
tình yêu và cuộc đời. Đời chị sau cuộc hôn nhân có nhiều vị đắng hơn là ngọt
ngào, nó như ám ảnh vào đời chị và ám vào cả trang thơ- nơi chị gửi gắm con
tim. Phải chăng đó là dư vị của trái đắng tình yêu? Dư vị của đoạn đời mà chị
vừa bước qua nó? Thảo Phương nhận ra gương mặt người tình. Và
phải chăng đó cũng là dấu hiệu báo trước đoạn đường đời kế tiếp của đời chị.
Thảo Phương - Người đàn bà đầy nghị lực, cam chịu và giàu tình thương. Chuyện
tình duyên của nhà thơ là một bài ca dang dở. Những gì nhà thơ bộc lộ, ký gửi
vào thơ ta lại càng cảm thông và trân trọng Thảo Phương hơn. Bài thơ Một
nửa là một minh chứng: Buổi chiều/ nghiêng/ khập
khiễng/ Nắng đổ/ về/ một bên/ Mưa đổ/ về/ một bên/ Hàng cây/ cụt/ một bên…/
Không gian/ đâu một nửa?/ Bài ca/ không có đầu/ Đứng quay hoài một chỗ/
Bầu trời/ không có màu/ Mây buồn/ không trôi nữa…!/ Sao níu được buổi chiều/
Theo anh đi-/ một nửa…?
Người đàn bà mang trên mình nỗi đau bất tận nên những gì trong
thơ chị cũng đều mang hơi hướng buồn, cô đơn. Thơ Thảo Phương bàng bạc nỗi buồn
đau nhưng đó là những giọt buồn tinh khiết. Đôi lúc chị “cười”, cười vì chị đã
không còn làm sao để khóc. Tiếng cười đầy gan lì, kiêu hãnh, khi chị dám chấp
nhận thương đau. Ta cười khan - / Thả rơi mảnh giáp cuối…/ Phơi con tim
ứa máu nhân tình/ Tình trường đó - / Hỡi tình địch: - Cầm giáo…!/ Để nhìn ta/
Đâm - lút - trái - tim - đau (Người tình bị tên lạc).
Buồn nhưng không đến mức bi lụy mà vẫn có những tia hi vọng, sự
tự tin, “dũng cảm” của một trái tim đàn bà.
Vốn là một phụ nữ có trái tim đa cảm, với chị bất cứ điều gì
cũng có thể làm chị xao động tâm hồn. Đứng trước biển, lòng chị lại rộn lên bao
nỗi suy tư. Những con sóng, bờ đá, muối, rong rêu, con dã tràng, vầng
trăng… là những đối tượng được nhân cách hóa trở nên có hồn cốt và tạo
nên những dư ba.
Thơ Thảo Phương sử dụng nhiều phép tư từ ẩn dụ, hoán dụ, nhân
hóa. Chính việc sử dụng thành công các biện pháp tu từ đó khiến cho thơ chị ý
vị, kín đáo và có sức hấp dẫn với bạn đọc.
Đọc thơ Thảo Phương nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã rất có lý khi
cho rằng: “Người đàn bà trong thơ Thảo Phương có tất cả những bức xúc và đau
đớn mà cuộc đời và số phận mang lại. Nhưng bất hạnh không đè bẹp được họ. Trong
các loại hình sáng tạo nghệ thuật-văn hóa thì hành trình khắc nghiệt của văn
chương có đôi khi quay lại “tàn phá” thật sự mỗi cá thể sáng tạo, như một sự
phải trả giá của chính người nghệ sĩ. Và hiểu như thế, tôi muốn được chia sẻ và
thông cảm hơn, nhất là đối với những cây bút nữ, họ đã vắt kiệt hết sức lực và
trí não của mình cho văn chương và cho cái thiên chức yêu thương của mình. Mà
có thể, những người đàn ông chúng tôi, hoặc rất tuyệt vời hoặc đầy khiếm khuyết
trong cái nhìn nữ tính vị tha của họ như trong cái nhìn dưới đây của Thảo Phương: Ta
soi bóng trên đầm lầy im ắng/ Gương mặt người tình nhìn ta đăm đăm/ Sâu đáy
nước lạnh xanh trong vắt/ Những xác rượu đã cất lên gương mặt dịu buồn kia/ Và
đầm lầy ngào ngạt men say/ Những bản thảo, những tứ thơ/ Ngủ lơ mơ và thiêm
thiếp chín”.
Thơ Thảo Phương đã tạo nên một giọng điệu riêng, có sức lay động và lan
tỏa. Thơ chị cũng chính là tiếng lòng khắc khoải với tình yêu và cuộc đời. Chị
đã góp một tiếng thơ riêng trong dàn đồng ca của thơ nữ Việt Nam hiện đại./.
Nhà thơ Thảo Phương
Tên khai sinh là Nguyễn Mai Hương, sinh ngày 28-10-1949 tại Đoan
Hùng, Vĩnh Phú, quê Gia Viễn, Ninh Bình. Năm 1975 tốt nghiệp Đại học, Thảo
Phương về dạy tại trường PTTH Cẩm Phả, Quảng Ninh. Từ 1977 đến 1983, là cán bộ
giảng dạy tại khoa Sinh học, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Từ 1983-1986 là
cán bộ Trường Quản lý Kinh tế Trung ương tại TP.HCM, sau đó, chuyển về công tác
tại phòng nghiên cứu di truyền học Bệnh viện phụ sản TP.HCM. Từ 1987 đến khi
mất (2008) Thảo Phương công tác tại tạp chí Kiến trúc và đời sống (TP.HCM). Chị
được kết nạp Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993.
Thảo Phương đã trình làng 4 tập thơ: Thơ Thảo Phương
(1990), Bài ca buồn (1992), Người đàn bà do đàn ông sinh ra (1993), Khúc ca
thời gian (1995). Với 4 tập thơ đã ra mắt bạn đọc, mỗi tập thơ
đều mang những nét dấu ấn về con người và cuộc đời của chị. Thơ Thảo Phương có
nét riêng, chị đã sống và viết đến trọn cuộc đời mình bằng tất cả nhiệt huyết,
bằng tình yêu và sự lao động nghiêm túc. Đó là cái đáng quý và đáng trân trọng
của một thi sĩ. Ngoài làm thơ Thảo Phương còn viết truyện và kịch bản
phim.
Thảo Phương đã đạt Giải 3 cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ
(1989-1990)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét