Tuy Hòa Lê Thiếu Nhơn
VỢ CHỒNG CẦM BÚT, BUỒN VUI GẬP GHỀNH
(Báo An Ninh Thế Giới Cuối Tháng, số 211/ 3.2019)
.
Tuy Hòa Lê Thiếu Nhơn
EM TUNG CÂU SÁU, ANH HỨNG CÂU TÁM
( Báo Giáo Dục & Thời Đại số 78, ngày 1.4.2019)
Trong
giới cầm bút, có nhiều cặp vợ chồng nổi tiếng. Thế nhưng, cả vợ lẫn chồng đều
làm thơ và sống bên nhau trọn đời, lại không có nhiều. Năm nay Nguyễn Nguyên
Bảy – Lý Phương Liên tổ chức đám cưới vàng, đánh dấu nửa thế kỷ họ sánh vai
trên đường thi ca buồn vui gập ghềnh. Thi sĩ vợ chỉ cười hiền hậu khi nhắc đến
hạnh phúc, còn thi sĩ chồng tếu táo: “Khi mới đến với nhau, chúng tôi nằm trong
số những người khổ nhất quả đất đấy. Còn bây giờ, chúng tôi lọt vào top những
người sướng nhất quả đất”.
Đều sinh trưởng ở Hà Nội, thi sĩ
Nguyễn Nguyên Bảy lớn hơn thi sĩ Lý Phương Liên 8 tuổi. Khi chàng cử nhân
Nguyễn Nguyên Bảy đã đường bệ cán bộ biên tập ở Đài Tiếng nói VN thì nàng công
nhân Lý Phương Liên tập tễnh làm thơ để vơi bớt niềm riêng cay cực. Là chị cả
của bốn đứa em. Lý Phương Liên phải bươn chải cùng mẹ gánh vác gia đình khi
người cha mất sớm. Năm 18 tuổi, Lý Phương Liên lại hứng chịu thêm một cú sốc,
người mẹ trúng bom Mỹ qua đời. Gạt nước mắt, Lý Phương Liên xin làm công nhân ở
Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo để nuôi em ăn học. Khoảnh khắc ấy, chị viết: “Em
đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng/ Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại/ An phận
ư? Mơ hồ sợ hãi// Sống vẫn lời mẹ dặn thiêng liêng…”. Và cũng từ xót xa số phận
mình, Lý Phương Liên đã có bài thơ “Tâm
sự với Thúy Kiều” gây chấn động đời sống văn học cuối thập niên 60 của thế
kỷ trước. Lý Phương Liên không chỉ khước từ ngõ cụt tăm tối “Sông Hồng đó, nọ
Hồ Tây/ Chết trong nước cuốn có ngày nổi lên/ Kiểu gì chết cũng thấp hèn/ Kiểu
gì chết cũng làm hoen ố đời” mà còn quyết liệt chọn lấy một sự tồn tại hướng
đến tương lai: “Chúng ta mở cửa cuộc đời/ Và cầm lái con thuyền nhân định/ Giữa
biển lớn thuyền chúng ta lướt đến/ Sáng toàn thân ánh sáng của con người”!
Vụt lên như một hiện tượng thơ,
nhưng đối với Lý Phương Liên, sự thành công dạo đó chỉ đơn giàn “cha mẹ mất
sớm, thất học, vì thế thơ tôi chỉ là đôi ba hoa cỏ, ghi chép lại chính cuộc đời
mình, nào ngờ thành tiếng mõ cầu rung lên hỉ ái, và cũng là sấm sét nộ ố… Thơ
tôi chỉ là thơ học trò bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường, ăn may là
do toàn cảnh éo le đắng đời nên lấy được nước mắt của người đọc mà thành thơ.
Tôi trở nên nổi tiếng có lẽ là cơ may, vậy thôi!”. Nói là nói vậy, nhưng một
nàng công nhân làm thơ “Ca bình minh” về chính nhịp sống lao động bộn bề trên
miền Bắc vừa xây dựng vừa ủng hộ miền Nam đánh Mỹ, cũng đáng để công chúng mến
mộ: “Bạn bè em có nhiều ý lạ/ Khi nói tới ca ba/ Ca của những đêm đầy trời sao
hoa/ Ca của những đêm đông bập bùng ánh lửa/ Còn em với niềm vui bé nhỏ/ Em gọi
ca ba là ca bình minh/ Ý nghĩ ấy gặp em như một sự vô tình/ Đêm ca ba đi dọc
đường Nam Bộ/ Tay vẫy chào những đoàn tàu rời ga Hàng Cỏ/ Đưa bộ đội lên đường/
Các anh đi suốt ca ba thẳng tới chiến trường/ Đón bình minh đất nước”.
Chính nhờ những câu thơ trong sáng
và đắm thắm của cô công nhân Lý Phương Liên, đã khiến chàng thi sĩ Nguyễn
Nguyên Bảy tìm kiếm cơ hội hạnh ngộ. Vốn đã đồng cảm với thơ, lại gặp người con
gái xinh đẹp và tháo vát, thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy lập tức đem lòng si mê. Bài
thơ “Thư tình đầu” được Nguyễn
Nguyên Bảy viết năm 1968 đánh dấu thời hẹn hò của họ: “Tình yêu gọi dòng sông
xuôi về biển/ Chim đầy vườn ríu rít gọi mai lên/ Mỗi bông hồng chọt hiện một
nàng tiên/ Em đã đến để lòng anh thương nhớ”. Còn nàng thì sao? Giữa những giờ
đứng máy và bao việc vun vén cơm áo cho bốn đứa em, Lý Phương Liên bất chợt
nghĩ đến người yêu ngày đêm chia sẻ những ngược xuôi túng bấn: “Muốn khuyên anh
nhiều lắm/ Gặp nào cũng muốn khuyên/ Nhưng gặp lại quên/ Vì sao? Vì sao em
không biết/ Cái cười anh thương thương/ Thế là em quên hết/ Rồi về nhà lại lo/
Rồi về nhà lại thương/ Những điều khó nói/ Không đành để mãi trong lòng/ Nên
viết gửi anh/ Bài thơ về những điều khó nói”.
Khi tình yêu đã chín muồi, Lý Phương
Liên nhận lời cầu hôn của Nguyễn Nguyên Bảy cuối năm 1969. Hoàn cảnh nàng chật
vật, mà hoàn cảnh chàng cũng không dễ chịu hơn. Không so, trái tim thi ca giúp
họ tự tin gắn bó với nhau. Cũng chẳng có gì phải chuẩn bị cho ngày làm cô dâu,
Lý Phương Liên thắp mấy nén hương lên bàn thờ để “Xin phép mẹ đi lấy chồng” bằng lòng thành trong khói tỏa: “Anh ấy
cao cao/ Căn nhà cao đồ đạc thường cũng mát/ Vẻ thông minh thu vào đôi mắt/
Nốt ruồi cửa miệng làm duyên/ Anh đến với con choáng ngợp phút đầu tiên/ Là đôi
mắt say và nụ cười như nói…/ Rồi thời gian sẽ đáp lời thủy chung/ Rồi thời gian
biết gừng cay muối mặn/ Trong hương thoảng nghe rõ lời mẹ dặn/ Cách làm vợ làm
chồng sau đám cưới tình yêu…”. Còn chú rể Nguyễn Nguyên Bảy cũng cam kết: “Anh
hứa đôi ta mùa gặt/ Nếp cho đời là nếp cái hoa vàng/ Tẻ cho đời là tẻ xoan tẻ
dự/ Anh chỉ xin tình một điều/ Chợt đôi lúc anh lạc mê lạc lú/ Em hãy Bồ Tát
khoan dung”.
Hai mảnh đời thi sĩ run rẩy của
Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên bước vào cuộc sống vợ chồng với bao khó
khăn chồng chất. Lý Phương Liên xa dần những vần điệu khát khao, chỉ còn Nguyễn
Nguyên Bảy níu giữ những phút giây lặng lẽ sống, lặng lẽ thơ của họ: “Có em tủi
tủi mừng mừng/ Khỏi than thở nỗi chưa từng được yêu/ Có em như có tín điều/
Thuyền đời phải vượt bao nhiêu thác ghềnh”. Nguyễn Nguyên Bảy ghi lại sự bình
yên trong lam lũ: “Câu văn vần này em đã không quên/ Anh ngủ nướng ban mai nghe
chổi hát ngoài thềm/ Quét bụi mưa bụi gió/ Thức dậy không thấy nón thấy rổ/
Biết là cò đã đi chợ cỏ lau/ Đổi kẹo lạc kẹo vừng lấy củi lấy rau…” và ghi lại
sự sóng gió trong tin cậy: “Mất việc, bạn cho mượn chiếc máy may/ Cấp vốn một
chỉ vàng/ Vợ te te đi mua vải/ Chồng thành thợ may giên ngang/ Thương vợ mòn
chân đi ký gửi hàng/ Học Tú Xương ơn con cò lặn lội/ Người có lúc biết đâu ngày
mai hỡi/ Khúc sông này bát ngát một tình ca/ Chở máy khâu trả bạn cười xòa/
Vàng hẹn sẽ có ngày trả đủ/ Vợ ôm con nhìn chồng cười nắc nẻ/ Trên trời máy bay
Mỹ đã bay xa”. Nhờ họ có nhau và có thơ, nên tại tổ ấm nhỏ bé mà Nguyễn Nguyên
Bảy thường ghi chú “dốc Thọ Lão, căn nhà muỗi 16”, cũng có một “Vườn chiều” mơ mộng: “Một vườn chiều có
thực/ Máy bay địch đã bay xa/ Hai đứa nhoi lên từ hầm trú ẩn/ Và một vườn chiều
khác hẳn/ Tiên Dung căng màn trên cát mềm/ Sao em chọn chỗ này để tắm/ Chử Đồng
Tử tôi nghèo lắm/ Khoan khoan xối nước khoan khoan/ Chớ để thịt da tôi đắc tôi/
Chớ để đau lòng mẹ cha…”.
Non sông thống nhất, vợ chồng Nguyễn
Nguyên Bảy – Lý Phương Liên đưa nhau rời Hà Nội vào đô thị sầm uất nhất phương
Nam để bắt đầu một hành trình mới mẻ. Thi sĩ chồng công tác ở Đài Truyền hình
TP.HCM, còn thi sĩ vợ công tác Đài Tiếng nói nhân dân TP.HCM. Tuy nhiên, thời
bao cấp gieo neo, lắm phen cả thi sĩ chồng lẫn thi sĩ vợ phải dắt díu nhau ra
chợ trời mua bán đồ cũ để có thêm thu nhập nuôi hai đứa con. Thế nhưng, kinh
doanh đâu phải trò đùa. Mấy bận thua lỗ, Nguyễn Nguyên Bảy đành chuyển sang
viết… tiểu thuyết, để Lý Phương Liên đạp xe đi bỏ mối cho các hiệu sách.
Đất nước mở cửa, thi sĩ chồng xông
xáo tay năm tay mười, còn thi sĩ vợ nhẫn nại dành dụm chắt chiu, cuộc sống của
Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên cũng khá giả dần lên. Đứa con trai đầu được
đi du học ngành điện ảnh, rồi đứa con gái thứ cũng được đi du học ngành mỹ
thuật. Nhiều lần đổi nhà, cơ ngơi sau luôn khang trang hơn cơ ngơi trước, nhưng
những nhọc nhằn còn in sâu trong đôi mắt Lý Phương Liên vẫn là nỗi ám ảnh của
Nguyễn Nguyên Bảy: “Một nửa tôi không lời/ Thương đau có gì phải kể/ Cảnh mất
cha đổ buồn mắt mẹ/ Mất mẹ trút khổ vai em/ Mười bảy tuổi mỏng manh thuyền/
Chèo chống đàn em dại/ Chỉ còn đôi mắt vợ của tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ
lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày
nắng quật/ Đêm ngôi bỏng vú môi con/ Vai gánh nỗi thương chồng/ Đôi mắt u hoài
trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức
với anh/ Đi cùng anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ”.
Hiện tại, hai người con của vợ chồng
Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên đã định cư ở Mỹ. Ngoài thời gian bay sang
bên kia bờ đại dương thăm con bồng cháu, vợ chồng Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương
Liên tự bỏ kinh phí biện soạn hợp tuyển văn chương cho bạn bè. Những tập “Thơ bạn thơ” và “Văn bạn văn” rất chỉn chu và rất sang trọng lần lượt ra đời, chứng
minh tình yêu văn chương chưa bao giờ nguội lạnh trong tâm hồn họ: “Thơ này em
tung câu sáu/ Anh hứng câu tám/ Câu sáu em bay cò trắng/ Câu tám anh ôm tình
trắng mướt bến sông xanh”.
Sau nửa thế kỷ chồng vợ, cặp thi sĩ
Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên vẫn “ tương kính như tân”. Bằng chứng là thi
sĩ chồng có cả tập “99 khúc tặng Liên”
để trao dâng ấm áp cho thi sĩ vợ: “Tình yêu hai chúng mình/ Không ngôn từ mây
gió/ Không ngọt ngon cám dỗ/ Mộc mạc lời trăng rằm/ Mà nên duyên tri kỷ/ Mà nên
tình tri âm/ Vầng trăng con mắt nhìn/ Như thần linh chứng giám/ Mỗi khi gặp
hoạn nạn/ Lại nhìn vầng trăng treo/ Mỗi khi tắt lửa yêu/ Lại gọi trăng xin
lửa/Nỡ trăng chỉ trả đủ/ Thủy chung yêu một đời.
Tuy Hòa Lê Thiếu Nhơn
Báo An Ninh Thế Giới Cuối Tháng, số 211/ 3.2019,
Báo Giáo Dục & Thời Đại số 78, 1.4.2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét