Trên vạn dặm Trung Hoa, trong số những di tích lịch sử tôi có dịp được tham quan, có lẽ đền thờ Nhạc Phi nằm ở chân núi Thê Hà cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang là di tích để lại cho tôi nhiều ấn tượng khó quên hơn cả. Đặc điểm nổi bật nhất trong kiến trúc của khu đền là giữa không gian rộng rãi, có khu mộ Nhạc Phi cùng con trai Nhạc Vân, đối diện là bốn bức tượng sắt quỳ nhốt trong cũi sắt, đã tạo nên nét đặc sắc chưa từng thấy trong các di tích lịch sử ở Trung Quốc cũng như trên thế giới… Hơn hai trăm năm trước, đại thi hào Nguyễn Du đã tới nơi này, để lại 5 bài thơ chữ Hán vịnh sử bất hủ về Nhạc Phi và những kẻ thủ ác hãm hại người anh hùng của đất nước Trung Hoa cổ đại.
Nhạc Phi, người
anh hùng tận trung báo quốc thời Nam Tống (1127-1279), quê huyện Thang Âm,
Tương Châu, nhà nghèo ham học, giỏi cả văn lẫn võ, thông thạo binh pháp Tôn Tử
và Ngô Khởi. Ông sinh ra vào thời nước Liêu và Đại Kim xâm lăng nhà Tống. Năm
1141, quân đội Nhạc phi đang đánh bại quân Kim ở vùng tây nam của Khai Phong,
Hà Nam ngày nay, sắp lấy lại được Biện Kinh (tức Khai Phong). Chính ngay lúc Nhạc
Phi “đánh thẳng đến phủ Hoàng Long, sảng khoái uống rượu mừng”, Tống Cao Tông
mê muội, nghe lời Tể tướng gian thần Tần Cối, chỉ trong một ngày liên tiếp phát
12 đạo kim bài triệu hồi ông về kinh. Sau khi Nhạc Phi về đến Lâm An (kinh đô
Nam Tống nay là Hàng Châu, trên sông Tiền Đường), Tần Cối bí mật ra lệnh cho
Trương Tuấn, Vạn Sĩ Tiết thêu dệt tội danh, vu cáo Nhạc Phi “mưu phản” để nhốt
ông lại, rồi Tần Cối lấy tội danh “không cần có” (mạc tu hữu) mà giết chết hai
cha con Nhạc Phi, Nhạc Vân cùng bộ tướng Trương Hiến. Nhạc Phi hưởng dương 39
tuổi. Về sau vua Hiếu Tông giải oan khuất cho ông, cải táng tại đất Ngạc, ban
hiệu là Trung Liệt, ban thụy là Vũ Mục. Đền thờ và mộ của ông cùng mộ con trai
Nhạc Vân được xây dựng từ thế kỷ 12, đến nay là một thắng cảnh danh tiếng Hàng
Châu. Trong khu đền có bức tượng ông ngồi cầm gươm với bức đại tự: Hoàn Ngã Giang Sơn - Trả lại giang sơn cho
ta. Còn trước đền có câu đối : Thanh
Sơn hữu hạnh mai trung cốt. Bạch thiết vô cơ chú nịnh thần - Núi xanh may mắn
làm nơi chôn cất người trung lương. Sắt trắng uổng thay đúc tượng nịnh thần.
Tần Cối trong 18 năm làm Tể tướng đã hãm hại
không biết bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ, khiến cho vương triều Nam Tống trở
nên hủ bại, ai ai cũng căm hận thấu xương tủy. Tâm địa xấu xa, luôn sống trong
sự bất an, Tần Cối cuối cùng cũng chết bởi bệnh hoại thư, kết thúc một cuộc đời
đầy rẫy tội ác, bị quả báo thích đáng. Cho đến tận ngày nay, món bánh giò cháo
quẩy của người Hoa được làm bằng bột chiên trong dầu, luôn luôn làm từng cặp
dính nhau, đó là tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc
dầu hành tội. Vào những năm Thành Hóa triều Minh, có lũ cướp đào bới mộ vợ chồng
Tần Cối mới thấy thi hài hai đứa ướp thủy ngân vẫn tươi nguyên, người ta đem
băm xác chúng, ném vào nhà tiêu. Một người họ Tần sau triều Tống đến trước tượng
Nhạc Phi có câu thơ: Nhân tòng Tống hậu
hãn danh Cối/ Ngã đáo phần tiền hối tính Tần. (Từ sau đời Tống ít ai tên là
Cối - Ta đến trước mộ mà thẹn mình mang họ Tần)(1) Mấy bức tượng Tần
Cối và vợ là Vương Thị, cùng tên giám ngục Vạn Sĩ Tiết, tướng Trương Tuấn, đều
được đúc bằng sắt, dáng quỳ, còng tay ngược phía sau cho người qua lại sỉ vả,
khạc nhổ, đánh đập. Qua mấy trăm năm như thế, tượng của vợ chồng Tần Cối cũng
hư hỏng nhiều lần, và trước sau được đúc lại 13 lần.(2) Những nhà kiến
trúc chắc có dụng ý tạo ra một quần thể Tượng - Mộ không ở đâu có, mà 4 bức tượng
sắt kia cũng là một thứ mộ riêng biệt dành cho những con người phạm những tội
ác khiến cả thế gian và trời đất phải nguyền rủa.
Trong Bắc
hành tạp lục, Nguyễn Du dành nhiều cảm xúc và suy tưởng về các nhân vật lịch
sử trước bao ngôi mộ của miền tịch diệt thăm thẳm trên vạn lý Trung Hoa; song,
chùm thơ này, cũng nói về mộ lại có phần khá đặc biệt - gồm một bài viết về Nhạc Phi, và tới những 4
bài viết về vợ chồng Tần Cối. Đúng hơn là thi hào nói với tượng-mộ của đôi vợ
chồng này, mượn tượng để nói với người đời, và bày tỏ thái độ, quan điểm thẩm mỹ
& lý tưởng xã hội của bản thân.
Theo ông Phạm Trọng Chánh, vào năm 1790,
sau ba năm đi giang hồ khắp các con sông "Giang Bắc, Giang Nam cái túi
không" và thăm các thắng cảnh Trung Quốc, Nguyễn Du đã đến thăm mộ Nhạc
Phi. Trước đó, ông cùng Nguyễn Đại Lang (tức Nguyễn Đăng Tiến, tức Cai Già, quyền
trấn thủ Thái Nguyên, người anh kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du, cùng bị tướng
Tây Sơn bắt làm tù binh và cùng được tha) đi Vân Nam, sau đó đến Liễu Châu. Tại
đây, hai người chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ Việt Đông và hẹn hai
năm sau gặp lại tại Trung Châu. Điểm hẹn là Miếu Nhạc Phi, nơi đây Nguyễn Du rảnh
rỗi chờ đợi đã viết 5 bài thơ.(3)
Chùm thơ này đã được nhắc đến nhiều trong
các bài nghiên cứu, song mới dừng ở mức giới thiệu tổng thể, nhằm phục vụ cho một
luận điểm nào đó, chứ chưa hề được phân tích, bình giảng, luận bàn một cách
thích đáng qua từng bài.
NHẠC VŨ
MỤC MỘ
Trung
nguyên bách chiến xuất anh hùng,
Trượng
bát thần thương, lục thạch cung.
Tướng
phủ dĩ thành tam tự ngục.
Quân
môn do tích thập niên công.
Giang
hồ xứ xứ không Nam Quốc,
Tùng
bách tranh tranh ngạo Bắc phong.
Trướng
vọng Lâm An cựu lăng miếu
Thê
Hà sơn tại mộ yên trung.
岳武穆墓
中原百戰出英雄,
丈八神鎗六石弓。
相府已成三字獄,
軍門猶惜十年功。
江湖處處空南國,
松柏錚錚傲北風。
悵望臨安舊陵廟,
栖霞山在暮煙中。
MỘ NHẠC
VŨ MỤC
Ông là
vị anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên, với chiếc thương dài
trượng tám, và chiếc cung giương nặng sáu thạch. Ở tướng phủ người ta ghép tội
ông bằng cái án ba chữ: tam tự ngục. Trong quân còn tiếc công ông mười năm trời.
Sông hồ còn đó, nhưng anh hùng mất rồi, nước Nam Tống rỗng không. Cây tùng cây
bách vẫn ngạo nghễ trước gió bão Bắc phương. Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm
An. Núi Thê Hà chìm trong khói chiều.
Vương Trọng dịch thơ:
Thương dài, cung nặng vẫy vùng
Trung Nguyên trăm trận, anh hùng xuất danh
Án ba chữ, tướng phủ hành
Mười năm luyện trận trở thành uổng công
Sông hồ còn, Nam Tống không
Coi thường gió lạnh, bách tùng lao xao
Vọng Lâm An, lăng miếu đâu
Khói chiều mờ mịt, chìm sâu Thê Hà.
Hai câu đề vẽ ngay ra, tựa khắc vào đá
những chiến tích và sự dũng cảm vô song của người anh hùng xuất hiện trong trăm
trận đánh ở Trung Nguyên, với hai vũ khí từng khiến giặc kinh hồn là chiếc
thương dài trượng tám, và chiếc cung giương nặng sáu thạch: Trung nguyên bách
chiến xuất anh hùng/ Trượng bát thần thương, lục thạch cung.
Từ đó, tác giả đi tới hai câu thực, lý giải
thực chất tấn bi kịch đau đớn của người anh hùng một cách súc tích, chất chứa nỗi
căm giận của tác giả về một vụ án đầy oan khuất và sự bất công ngút trời: Tướng
phủ dĩ thành tam tự ngục/ Quân môn do tích thập niên công. Ở tướng phủ người ta
ghép tội ông bằng cái án ba chữ: tam tự ngục. Khi Tần Cối khép Nhạc Phi vào tội
tử hình, đại tướng Hàn Thế Trung hỏi: Có tội gì? Cối trả lời: Mạc tu hữu (Chẳng cần có). Nguyễn Du mượn người khác
thay mình đánh giá: Trong quân còn tiếc công ông mười năm trời! Đó là mười năm
của một viên tướng can đảm, hiểu biết chiến thuật, ít quân hơn mà đánh thắng
quân Kim 126 trận lớn nhỏ. Ông đã giành lại được lãnh thổ phía Nam sông Dương Tử
và sông Hoài cho Nam Tống, được phong làm Đại Nguyên Soái. Liên 2 này kể mà như
một tiếng than, một lời thở dài trĩu buồn kéo dài tới liên 3:
Giang hồ xứ xứ không Nam Quốc/ Tùng bách
tranh tranh ngạo Bắc phong - Sông hồ còn đó, nhưng anh hùng mất rồi, nước Nam Tống
rỗng không! Nhưng cây tùng cây bách vẫn hiên ngang ngạo nghễ trước gió bão. Hai
câu luận đã khảng khái vạch ra cái sự thật đắng ngắt và đau đớn khi đất nước ấy
mất Nhạc Phi cũng tựa mất hết người anh hùng, mất hết cây cột trụ chống đỡ
giang san, chỉ còn lại lũ người hèn hạ, và chốn chốn miền giang hồ ấy dường
cũng chẳng còn nước Nam nữa! Có điều, trong thảm cảnh ấy, anh linh và uy vũ người
anh hùng vẫn còn sừng sững như Tùng Bách bất chấp phong ba bão táp tới muôn đời
sau! Cái hình ảnh tượng trưng đầy bi tráng này khiến thi hào dường nhòa lệ, và
có thể ông đã nhớ tới những dòng thơ bi phẫn của Nhạc Phi: Giận tóc dựng ngược/ Đứng tựa lan can/ Mưa hiu hắt ngừng/ Mở mắt trừng
lên/ Nhìn trời hú lớn/ lòng trai khích động/ Ba mươi tuổi công danh như bụi đất/
Tám ngàn dặm đường chỉ mây và trăng/ Đừng chờ đợi uổng công/ Để đầu xanh bạc trắng/
Da diết khắp trời buồn/ Mối nhục Tĩnh
Khang/ Vẫn còn chưa rửa/ Thần dân oán hận/ Khi nào mới tan/ Cưỡi xe dài đạp nát
cung điện núi Hạ Lan/ Nuôi chí lớn đói ăn thịt Hồ tặc/ Nói cười khát, uống máu
giặc Hung Nô/ Đợi từ lâu thu hồi sông núi cũ/ Dâng lên cung khuyết. (Mãn
Giang Hồng).(4) Một bầu nhiệt huyết ái quốc trung quân nóng bỏng đến
thế mà bị những trái tim đen ngòm đầu độc, hãm hại thê thảm! Phải chăng cái
hình ảnh mái đầu xanh bạc trắng ôm niềm bi thống kia đã gợi Nguyễn Du liên tưởng
tới khát vọng của bản thân, suốt một thời tuổi trẻ Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, và cũng góp một phần thi hứng -
thi liệu cho người nghệ sĩ sau này sẽ dựng nên người anh hùng đầu đội trời chân
đạp đất, dọc ngang nào biết trên đầu có
ai là Từ Hải trong kiệt tác Đoạn trường
tân thanh?
Với xúc cảm ấy, nhà thơ Buồn trông về lăng
miếu cũ ở Lâm An. Núi Thê Hà chìm trong khói chiều - Trướng vọng Lâm An cựu
lăng miếu/ Thê Hà sơn tại mộ yên trung. Bên ngọn núi Thê Hà và đền miếu mộ tượng
cùng bản thân mình đang chìm trong khói chiều, ông buồn trông về lăng miếu xưa
cũ, nhìn vào dĩ vãng xa xăm, trầm ngâm suy tưởng về sự hưng phế của các triều đại
và bâng khuâng trước bao lẽ đời phải trái, bao nghịch lý ngổn ngang của “miền
sinh ký” vẫn đầy rẫy “rắn rồng, hổ báo” độc ác…
Các ông Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Hoàn và
Mai Quốc Liên đều đoán/ khẳng định rằng Nguyễn Du có đến Lâm An, song phần đông
các nhà nghiên cứu khác đã từ câu Trướng
vọng Lâm An cựu lăng miếu mà suy rằng: Lâm An là kinh đô Nam Tống nằm bên
sông Tiền Đường, thuộc Hàng Châu, nên Nguyễn Du không tới Lâm An mà chỉ đứng từ
xa mà “trướng vọng”; còn câu Thê Hà sơn tại
mộ yên trung trong mạch suy đó vẫn thường được dịch là: Thấy núi Thê Hà chìm trong khói chiều.
Nhưng, theo thiển ý của chúng tôi, Trướng
vọng ở đây là nhìn vọng về kinh đô cũ Lâm An, không phải là cái nhìn địa lý
mà là cái nhìn về quá khứ lịch sử. Và hãy thử xét về mặt địa lý đơn thuần, từ
miếu Nhạc Phi bên Tây Hồ tới cố cung Nam Tống nằm bên sông Tiền Đường có một
khoảng cách vài chục cây số! Hơn nữa, không thể cố chấp coi Trướng vọng chỉ có nghĩa là nhìn từ xa,
rất xa. Ngay ở trên đất Lỗi Dương huyện Hành Dương tỉnh Hồ Nam, nơi Đỗ Phủ mất
trên một con thuyền ở thượng du sông Tương, sau đó được xây ngôi mộ giả tưởng
niệm tại bờ sông, thế mà Nguyễn Du cũng vẫn nói Trướng vọng Lỗi Dương: Thiên chu giang thượng đa thu tứ/ Trướng vọng
Lỗi Dương nhật mộ vân- Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ (Ta thả chiếc thuyền con trên sông, thu tứ dào dạt- Buồn vọng trông đám
mây chiều trên đất Lỗi Dương). Ông vọng về cái đám mây chiều ngày Đỗ Thiếu
Lăng qua đời trên đất Lỗi Dương. Trong Nhạc
Vũ Mục mộ cũng vậy, ông vọng về cựu lăng miếu Lâm An ngày nước Nam Tống
không còn người anh hùng nào như Nhạc Phi nữa, bị rơi vào tay người Kim, vua bị
bắt. Nếu vậy thì câu kết sẽ cần hiểu là: Lúc này, núi Thê Hà chìm trong khói
chiều như cùng nhà thơ tưởng niệm cho một quá khứ đau buồn của đất nước Nam Tống.
Trong Hội thảo Quốc tế về Nguyễn Du năm
2015 tại Hà Nội, tiến sĩ Nhật Nohira Munehiro đã trình bày bản tham luận, có khẳng
định: “Nếu theo dõi cuộc hành trình đi sứ của Nguyễn Du thì chúng tôi có thể đoán
rằng mộ của Nhạc Phi ở Hà Nam hoặc Hà Bắc, và Nguyễn Du ghé qua mộ ấy trên đường
đi Bắc Kinh. Sách Minh nhất thống chí,
địa chí Trung Quốc, xác nhận rằng ở Thang Âm, tỉnh Hà Nam, tức là nơi sinh của
Nhạc Phi, có ngôi miếu của Nhạc Phi… Tôi chưa bao giờ đến đó, nhưng trên mạng
Internet có những trang giới thiệu miếu Nhạc Phi ở Thang Âm, tỉnh Hà Nam và
cũng xác nhận rằng ở miếu đó có tượng Tần Cối và tượng Vương thị.”(5) Đó
là một ý kiến rất đáng chú ý; song vì chúng tôi chưa tận mắt nhìn thấy tượng sắt
vợ chồng Tần Cối mà trang mạng đã xác nhận (bản thân Nohira Munehiro cũng chưa
đến đó, cũng chưa được nhìn thấy dù là qua ảnh), nên chúng tôi tạm thời đồng
tình với ý kiến của ông Phạm Trọng Chánh, và chờ thời cơ có dịp đến Thang Âm, tỉnh
Hà Nam để mục sở thị và chiêm ngưỡng tượng vợ chồng gian thần. Nhưng dù tại đó
có miếu Nhạc Phi và tượng Tần Cối, Vương thị, cũng chưa đủ cơ sở để khẳng định
chắc chắn đấy là nơi sứ thần Nguyễn Du đã đi qua và làm 5 bài thơ nói trên.
Sau này, vào năm 1813 trên đường đi sứ (từ
9-8 đến 22-8 năm Quý Dậu) Nguyễn Du đi qua Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam, nơi Nhạc
Phi từng đóng quân và viết bài thơ:
YỂN
THÀNH NHẠC VŨ MỤC BAN SƯ XỨ
Đương
thời tằng trú Nhạc gia quân,
Thử
địa kinh kim hữu chiến trần.
Đại
tướng không hoài bang quốc sỉ,
Quân
vương dĩ tuyệt phụ huynh thân.
Kim
bài thập nhị hữu di hận,
Thiết
kỵ tam thiên không mộ vân,
Huyết
chiến thập niên thành để sự,
Phong
Ba Đình hạ tạ Kim Nhân.
郾城岳武穆班處
當時曾駐岳家軍,
此地經今有戰塵。
大將空懷邦國恥,
君王已絕父兄親。
金牌十二有遺恨,
鐵騎三千空暮蕓。
血戰十年成底事,
風波亭下謝金人。
YỂN
THÀNH NƠI NHẠC VŨ MỤC RÚT QUÂN
Thời bấy
giờ quân của Nhạc tướng công từng đóng quân ở đây. Vùng đất này từ xưa đến nay
đã từng trải qua bao cát bụi chiến trận. Đại tướng luống mang nỗi sỉ nhục của đất
nước. Nhưng nhà vua (Tống Cao Tông) đã dứt bỏ tình thân với cha và anh đã bị
quân Kim bắt. Mười hai tấm thẻ bài để lại nỗi hận. Ba ngàn quân thiết kỵ chỉ
còn lại đám mây chiều. Mười năm huyết chiến để làm nên cái việc: Bị giết ở
Phong Ba Đình để triều đình tạ tội với người Kim.
(Phong
Ba Đình là một đình trong ngục Đại Lý Tự nơi Nhạc Phi và con trai bị giết, nay
còn di tích ở Hàng Châu).
Ngô Linh Ngọc dịch thơ:
Xưa đây Nhạc soái đóng quân doanh,
Mảnh đất nay còn bụi chiến tranh
Đại tướng luống mang hờn đất nước,
Quân vương đã dứt nghĩa cha anh!
Ba ngàn thiết kỵ, mây chiều lấp
Một tá kim bài, hận lớn sinh,
Huyết chiến mười năm, đành rốt cuộc
Đình Phong Ba chết tạ người Kim !
Nguyễn Du một lần nữa bằng câu chữ tạc nên
công lao vĩ đại của đại tướng quân Nhạc Phi đối với nước Nam Tống, người anh
hùng mãi mãi được nhân gian truyền tụng, và ngậm ngùi trước nỗi hận của người
mang “quốc sỉ”, người từng đánh Nam dẹp Bắc oai hùng rồi phải chết một cái chết
vô nghĩa, đau đớn, bởi những kẻ hèn với giặc, tàn nhẫn với các công thần và cả
người thân của mình.
Một trong những kẻ đó là Tần Cối, cùng
tòng phạm là vợ y - Vương thị, mà Nguyễn Du dành cho mỗi đứa hai bài thơ tựa những
nhát búa tạ giáng không thương tiếc xuống đầu sắt ô nhục của chúng. Lẽ đời, làm
ra tượng là để chiêm ngưỡng, chứ đâu phải để người ta đóng cũi như súc vật, rồi
khạc nhổ, đánh đập suốt gần ngàn năm qua như thế? Thông thường, các tượng hay
quần thể tượng được tạo ra, nói theo triết gia Đức Hêghen là “để tô điểm, trang
trí cho không gian có tính kiến trúc… và gợi lên ấn tượng về sự sống và vận động”(6)
- “mục đích của tác phẩm điêu khắc là dùng hình tượng con người để biểu hiện yếu
tố tinh thần.”(7) Nhưng nếu như Hêghen cho rằng, nghệ thuật điêu khắc
Hy Lạp cần/ và đã diễn tả “cái đẹp của lý tưởng”(8), và nghệ thuật
“không phải chỉ là một thứ trang trí, các sáng tạo của nó không phải chỉ là những
đối tượng để trang trí mà tương ứng với một nhu cầu của sự sống đòi hỏi phải được
thỏa mãn”(9), thì ở đây, trước sự thật về những kẻ gian thần độc ác,
“nhu cầu của sự sống đòi hỏi phải được thỏa mãn” đó chính là sự căm hờn khinh bỉ
cần có chỗ trút bỏ. Và một triết gia hiện đại người Anh cũng đã khẳng định:
“cái đẹp thật sự có thể tìm thấy ngay ở cả những gì xơ xác, đớn đau và hư hoại”,
khi mà “năng lực nói lên sự thật về thân phận chúng ta bằng những ngôn từ chuẩn
mực và những giai điệu cảm động sẽ đem lại một sự cứu chuộc”(10) -
“Và điều này thậm chí cũng đúng với những tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực tàn
nhẫn, như các tiểu thuyết Madame Bovary của
Flaubert hay Nana của Zola, với sức mạnh
và sự thuyết phục tùy thuộc vào tính chất tương phản đầy mỉa mai giữa những thứ
như chúng là và những thứ như người ta muốn chúng là.”(11) Trong văn
học nghệ thuật Việt Nam và thế giới cổ kim, không hiếm những hình tượng xấu xa,
kinh dị, đáng ghê tởm được đưa vào cấu trúc tác phẩm để làm sự tương phản, đối
trọng hữu hiệu với cái Đẹp lý tưởng, sự cao thượng.(Chỉ cần lấy ví dụ về quỷ
Satan và các đao phủ thực hiện việc trừng trị tàn khốc trong Kinh thánh, trong
chín tầng Địa ngục của thi hào Ý Dante hay dưới thập điện Diêm phủ của dân gian
các nước Á Đông). Nguyễn Du đã bằng nghệ thuật thơ ca để cảm thụ & luận
bình nghệ thuật khác - ở đây là điêu khắc; hơn thế, ông bình luận về tượng là để
nói với tượng, cũng là một cách nói với người đương thời và các đời sau. Những
luận điểm của hai triết gia vừa dẫn trên có thể làm một cơ sở lý luận cần thiết
để chúng ta thâm nhập sâu thêm vào chùm thơ về Mộ-Tượng đặc biệt ở đền Nhạc
Phi.
TẦN CỐI
TƯỢNG I
Điện
cối hà niên chùy tác tân
Khước
lai y bạng Nhạc Vương phần.
Thị
phi tẫn thuộc thiên niên sự,
Đả
mạ hà thương nhất giả thân.
Như
thử tranh tranh chân thiết hán,
Nại
hà mĩ mĩ sự Kim nhân ?
Thùy
vân ư thế vô công liệt ?
Vạn
cổ do năng cụ loạn thần.
秦檜像其一
殿檜何年椎作薪,
卻來依傍岳王墳。
是非盡屬千年事,
打罵何傷一假身。
如此錚錚真鐵漢,
奈何靡靡事金人。
誰云於世無功烈,
萬古猶能懼亂臣。
TƯỢNG TẦN
CỐI I
Cây cối
bên điện vua năm nào nay đã bổ làm củi rồi, mà sao tên Cối lại đến dựa dẫm bên
mộ Nhạc Vương? Đúng sai đã là chuyện để ngàn năm định luận. Đánh mắng có làm
đau đớn gì cái thân giả ấy? Trông có vẻ cứng cáp như thế kia, rõ là một con người
sắt thép, mà cớ sao lại khúm núm thờ lũ người Kim? Ai bảo nó không có công trạng
gì góp cho đời ? Muôn đời còn có thể lấy nó làm gương cho bọn gian thần phải e
sợ.
Vương Trọng dịch thơ:
Cối kia thành củi bao giờ
Cối này dựa dẫm bên mồ Nhạc Phi
Ngàn năm sai, đúng luận suy
Chịu đòn, thân giả biết gì đớn đau?
Sắt kia, cứng cổ cứng đầu
Cớ sao khúm núm theo hầu giặc Kim?
Ở đời, công nó đừng quên:
Loạn thần run sợ tới nghìn năm sau.
Nguyễn Du khéo chơi chữ Cối trong điện cối - cây cối bên cung điện và tên
Tần Cối: bên điện vua Tống Huy Tông có một cây “cối” sinh nấm ngọc, bị cho là
điềm Tần Cối làm mất nhà Tống khi y được trọng dụng; cây “cối” đó sau bị chẻ
thành củi. Sự thật là, sau khi hãm hại cha con Nhạc Phi, vợ chồng Tần Cối đã sống
trong nỗi bất an, hoảng loạn, chết trong sự ô nhục, và cuối cùng bị di xú muôn
đời bằng hình hài sắt thô quỳ nhục nhã trong sự đánh mắng, thóa mạ của người đời.
Câu phá đề từ đây bắt đầu cho một nguồn cảm hứng mỉa mai cay độc của tác giả
cho tới suốt bài và các bài sau: mà sao tên Cối còn đến dựa dẫm bên mộ Nhạc
Vương? Trong một không gian thoáng rộng như được chống đỡ bởi những gốc tùng cổ
thụ, 4 bức tượng sắt, mà trung tâm là tượng Tần Cối phải quỳ mãi mãi trước hai
ngôi mộ của hai cha con Nhạc Phi, như một sự trừng phạt nghiệt ngã; còn Nguyễn
Du thì diễn đạt sự trừng phạt đó bằng câu hỏi mỉa mai gắng kìm sự phẫn nộ: “khước
lai y bạng Nhạc Vương phần?” Theo từ điển Thiều Chửu, y bạng (依傍) là
nương tựa, nhờ vả. Thực oái oăm, và cũng thực ngu xuẩn, đểu cáng và khốn nạn, kẻ
giết người độc ác lại tìm sự nương tựa nơi người chính bị kẻ đó giết hại, và ăn
theo sự nổi tiếng của người ấy! (Cái ý dựa dẫm ăn theo này, Nguyễn Du sẽ triển
khai đầy đủ, và thích đáng trong bài Tần Cối tượng II).
Tới liên 2, tác giả làm như khách quan, đứng
ngoài đánh giá về thái độ của người đời đối với Tần Cối: Thị phi tẫn thuộc thiên niên sự/ Đả mạ hà thương nhất giả thân.
Đúng sai đã là chuyện để ngàn năm định luận. Đánh mắng có làm đau đớn gì cái
thân giả ấy? Nguyễn Du làm ra vẻ thương hại, cảm thông với hình nhân của kẻ bị
đối xử một cách lạ đời như thế, để trách người đời đã làm một việc vô ích, nhưng
đồng thời ông bắt đầu giáng đòn vào mộ-tượng: nó là thân giả, lại là sắt vô tri
vô giác, thì mọi sự “đả mạ”- đánh mắng nhục mạ có ảnh hưởng gì tới nó đâu, ngược
lại chỉ làm nó thêm trơ lỳ và đáng ghét!
Và sự đáng ghét đó cứ lớn dần thành sự tởm
lợm, khinh miệt, căm giận trong lòng, khiến tác giả nắm lấy cổ tượng buộc tượng
phải ngẩng đầu lên để tra vấn, như nó cũng mang “linh hồn chết” vậy: Trông có vẻ
cứng cáp như thế kia, rõ là một con người sắt thép, mà cớ sao lại khúm núm thờ
lũ người Kim? Như thử tranh tranh chân
thiết hán/ Nại hà mĩ mĩ sự Kim nhân? Ở liên 3 này, Nguyễn Du đã kết hợp mấy
thao tác nghệ thuật đắt và đúng chỗ: dùng sự tương phản đối lập, lấy hư để nói
thực, mượn bóng vờn dạo để bất ngờ xuyên táo sự thật vào chủ thể - cũng là một
cách “tá khách hình chủ”: cái dáng vẻ như cứng cáp cho thấy là con người có
tính cách gang thép, bất khuất can trường, thế sao lại rạp mình luồn cúi một
cách hè hạ trước bọn người Kim? (Từ điển Thiều Chửu: động từ mĩ mĩ (靡靡) là
lướt theo, rạp theo. Phong tục bại hoại cũng gọi là mĩ mĩ). Bằng hai câu thơ,
Nguyễn Du đã phả linh hồn vào mộ-tượng, bắt nó phải dựng dậy để tiếp tục nghe
phán xử nghiêm khắc của chính ông thay mặt người đời.
Ba câu hỏi dồn dập ở trên như sự chuẩn bị
tâm lý cho người đọc để tác giả đi tới câu hỏi nghiệt ngã cuối cùng trong câu kết:
Thùy vân vu thế vô công liệt? Ai bảo
nó không có công trạng gì góp cho đời? Và ngay lập tức ông trả lời: Vạn cổ do năng cụ loạn thần. Muôn đời
còn có thể lấy nó làm gương cho bọn gian thần phải e sợ! Tới đây, sự mỉa mai
chua chát bị dồn nén đã bùng ra thành một lời phán xét đanh thép. Và rõ ràng là
Nguyễn Du thấy sự cần thiết của một tấm gương phản đề tày liếp về đạo lý làm
người dành cho muôn đời, qua số phận gian thần Tần Cối cả khi sống lẫn khi chết.
Một nhà nghiên cứu có viết: “… theo Nguyễn,
dựng tượng kẻ xấu tuy là để trừng phạt nhưng như thế tức là vô tình để cho cái
ác, cái xấu tồn tại mãi, Nguyễn muốn cái ác, cái xấu phải vĩnh viễn mất đi. Hơn
nữa, tượng vợ chồng Tần Cối còn ở đó bên cạnh tượng người anh hùng Nhạc Phi thì
hóa ra chừng nào còn người anh hùng này thì hai kẻ xấu kia chúng vẫn tồn tại…
Có nghĩa là vô tình để nó bất hủ cùng với người anh hùng Nhạc Phi.”(12)
Theo chúng tôi, nhận định như trên là hiểu sai ý tứ của Nguyễn Du, vô tình hạ
thấp cái sức mạnh của “đòn âm”, sức mạnh của một thứ “chủ nghĩa hiện thực tàn
nhẫn” mà Nguyễn quất vào những kẻ tiểu nhân đểu cáng, những kẻ bạc ác tinh ma (Kiều). Nguyễn nhiệt thành ủng hộ việc dựng
tượng sắt những kẻ này để đồng thời bằng ngôn từ của mình phụ họa thêm, nhân
thêm lên một biểu tượng vĩnh cửu của sự phi nhân tính nhằm kêu gọi, phục hồi
nhân tính. Điều này chúng ta sẽ càng thấy rõ hơn trong bài Tần Cối tượng 2.
TẦN CỐI
TƯỢNG II
Cách
Thiên các hủy ngọc lâu tàn,
Do
hữu ngoan bì tại thử gian.
Nhất
thể tử tâm hoài đại độc,
Thiên
niên sinh thiết phụ kỳ oan.
Ngục
trung dĩ tiễn sinh tiền huyết,
Giai
hạ đồ tru tử hậu gian.
Đắc
dữ trung thần đồng bất hủ,
Tề
thiên kỳ phúc thái vô đoan.
秦檜像其二
格天閣毀玉樓殘,
猶有頑皮在此間。
一世死心懷大毒,
千年生鐵負奇冤。
獄中已濺生前血,
階下徒誅死後奸。
得與忠臣同不朽,
齊天奇福太無端。
TƯỢNG TẦN
CỐI II
Gác
Cách Thiên đổ nát, lầu ngọc đều đã hoang tàn. Nhưng vẫn còn tên gian phi càn rỡ
ở đây. Suốt đời trái tim chết của nó chứa đầy nọc độc. Nghìn năm cục sắt sống
kia phải mang nỗi oan kỳ lạ. Trong ngục người trung thần khi sống đã phải trào
máu, Dưới thềm phạt tội tên gian đã chết, chỉ uổng công! Được cùng với bậc
trung thần mà thành bất hủ. Cái phúc lạ lớn tày trời của nó thật quá vô lý.
Vương Trọng dịch thơ:
Cách Thiên, lầu ngọc nát tan
Chỉ còn trơ một thằng gian nơi này
Tim đen nọc độc chứa đầy
Chịu oan, sắt thép đoạ đày nghìn năm
Đòn roi bật máu trung thần
Thằng này, có đánh bao lần, cũng trơ
Lạ kỳ, nhà hắn phúc to
Nương nhờ bất hủ trời cho trung thần!
Liên1
cũng dường bắt đầu bằng sự xuất hiện của đối tượng vịnh sử như bài Tần Cối tượng1: Cây cối bên điện vua năm
nào nay đã bổ làm củi rồi, mà sao tên Cối lại đến dựa dẫm bên mộ Nhạc Vương?
Nhưng ở đây, không chỉ là cây”cối” bị bửa
ra làm củi, mà tấm biển đề bốn chữ Nhất Đức
Cách Thiên do chính tay vua Huy Tông nhà Tống viết tặng Tần Cối để trong
nhà cũng đã mục nát từ lâu giữa lầu phủ hoang tàn, hơn thế, trở thành trò cười
cho thiên hạ. Bốn chữ ấy nghĩa là vua tôi cùng có một đức thuần nhất có thể cảm
thông được lòng trời. Nhưng khi vua Huy Tông bị bắt làm tù binh nước Kim, Tể tướng
Tần Cối cùng bị bắt rồi được tha và chủ trương chủ hòa, chịu thần phục Kim, nhường
đất phía Bắc sông Hoài cho Kim, trở thành công cụ cho Đại Kim, bỏ rơi nhà vua
trong ngục và bắt giết Nhạc Phi để làm vui lòng nhà Kim (sự Kim nhân). Đời Tống
Ninh Tông, Cối bị xóa bỏ tước vương, mang tên thụy là Mậu Xú, rồi người đời dựng
tượng chịu quỳ trước mộ Nhạc Phi để chịu sự trừng phạt như chúng ta đã biết,
trong cảnh tượng Cách Thiên các hủy ngọc
lâu tàn - Gác Cách Thiên đổ nát, lầu ngọc đều đã hoang tàn. Và tác giả
không khoác cái vỏ “lịch sự” để châm biếm nữa (y bạng - dựa dẫm, nương nhờ), mà
thẳng thừng điểm mặt chỉ tên kẻ vẫn còn lẩn quất giữa cõi đời: Nhưng vẫn còn
tên gian phi càn rỡ ở đây- Do hữu ngoan
bì tại thử gian.
Rồi tác giả nhận định một cách khái quát bản
chất thực của một kẻ cả khi sống lẫn khi chết bị thiên hạ ngàn đời phỉ nhổ, bằng
hai câu thực vào loại “đỉnh” của thơ ông: Nhất
thể tử tâm hoài đại độc/ Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan. Suốt đời trái
tim chết của nó chứa đầy nọc độc. Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan
kỳ lạ.
Khi sống, trái tim của nó mang đầy chất độc
đã đành, nhưng chết đi, nó vẫn mang đầy chất độc đó trong trái tim chết (tử
tâm). Một cách diễn đạt cực tả nhằm phanh phui tận cùng cái sự thật khủng khiếp
về một kẻ từng mang vóc dáng xương thịt con người khiến người đọc cả ngàn năm
sau phải rùng mình ghê sợ. Nhưng, nỗi cảm thông này của nhà thơ mới làm nên “thần
nhãn” của bài thơ: Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ! Câu thơ
như cũng mang niềm cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi đau của người nghệ
nhân khi buộc phải dựng lên cái hình hài kết tinh sự xấu xa đồi bại. Nỗi oan của
người anh hùng đã là một nỗi thương đau lớn cho bao thế hệ người, song nỗi oan
của cục sắt sống vô tội kia khi phải mang hình dạng của kẻ đáng nguyền rủa, phải
chịu sự phỉ báng đánh đập mãi mãi cùng hắn, cũng là một điều thực đáng kể, và bởi
vậy, nỗi oan của người anh hùng càng thấm thía xót xa đối với người đời! Nghệ
thuật bồi thấn tương phản của thơ trong trường ẩn dụ khi kết hợp với cảm xúc mạnh
mẽ và sự suy tưởng sâu sắc đã tạo ra một hình tượng thơ thực độc đáo, và hiếm
có trong thơ ca Trung đại Việt Nam.
Là một nghệ sĩ nhạy cảm có “cái nhìn thấu
suốt tới sáu cõi” và giàu tình thương đối với vạn vật, Nguyễn Du hơn ai hết thấm
hiểu rằng con người khi sinh ra trên đời ai cũng luôn mong tương thông cùng thế
giới để tạo nên một sự hài hoà nhu thuận, như Lão Tử đã nói: "Nhân pháp địa,
địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên" (Người theo lẽ đất, đất
theo lẽ trời, trời theo lẽ đạo, đạo thuận theo lẽ tự nhiên). Bởi thế, sự tồn tại
của của một cục sắt mang nỗi oan kỳ lạ kia là một sự phản tự nhiên đến tột
cùng, phá vỡ một nguyên lý thiêng liêng của Trời Đất: "vạn vật dữ ngã vi
nhất" (vạn vật với ta là một). Từ nguồn suy tưởng sâu xa ấy, tác giả đi tới
hai câu luận: Ngục trung dĩ tiễn sinh tiền
huyết/ Giai hạ đồ tru tử hậu gian. Trong ngục người trung thần khi sống đã
phải trào máu, Dưới thềm phạt tội tên gian đã chết, chỉ uổng công! Những cặp từ
công đối và ngôn từ súc tích vô tình khái quát lên cái sự thật lịch sử đẫm máu
được liên thông từ khi nó diễn ra cho tới lúc nhà thơ mục sở thị cảnh mộ-tượng
bị trừng phạt ra sao. Cảm xúc của nhà thơ tựa cũng tới độ phải trào máu căm hận,
khiến ông tạm quên đi điều mình vừa nói (là cái mộ-tượng quái dị kia có tác dụng
làm gương cho lũ loạn thần), để giây
phút đó chỉ thấy sự vô nghĩa, sự uổng công trong hành động trừng phạt của người
đời; và từ điểm tựa cảm xúc ấy, tác giả đi tới hai câu kết tưởng đâu như một nhận
xét nhẹ nhàng song thực là dữ dội, khắc nghiệt: Đắc dữ trung thần đồng bất hủ/ Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan. Được
cùng với bậc trung thần mà thành bất hủ. Cái phúc lạ lớn tày trời của nó thật
quá vô lý! Liên 4 này xét cho cùng cũng là một cặp luận nối dài, cái phúc lạ lớn tày trời của mộ-tượng
kia đúng là một biểu hiện của sự bất công nối tiếp bất công không thể chấp nhận
được đối với lẽ phải cũng như đối với lương tri thông thường! Thái độ mỉa mai
châm biếm ở mức độ sâu cay tới đây trở thành một sự phán xử nghiêm khắc, thêm một
lần ném vào đầu tượng không chỉ cái tội ác tày trời do hắn gây ra mà còn cả sự
ngược đời phi lý kéo dài gần ngàn năm cũng do hắn mà ra - là được bất tử cùng bậc
trung thần, mà theo nhà thơ, đó cũng là một sự nhạo báng tự nhiên và thánh thần,
một sự vô Đạo!
Nhưng nói tới sự vô lý tột cùng kia, không
có nghĩa là tác giả phủ định quan điểm của mình ở bài Tần Cối tượng1, và sự trớ trêu của số phận này dù sao cũng cần được
duy trì khi nó đã trót sinh ra. Sự quá vô lý đó cũng là một cách khó thay thế nổi
trong việc tạo ra bài học về đạo lý cho mọi người và treo gương tày liếp cho những
kẻ loạn thần xưa - nay. Sự vô Đạo khi kẻ ác cùng bất tử với người hiền cũng cần
truy tới cội nguồn, và đó cũng là một thứ tội ác mà kẻ mang hình hài ghê tởm muốn
“ăn theo” người hiền kia cũng cần phải gánh chịu, cộng với tội ác đã có! Hơn thế,
sự “cặp đôi” này cũng là một biểu hiện của thế giới tuy đã qua thời hỗn mang
nguyên thủy song lại tạo ra bao sự hỗn mang mới trong nhân sinh mà triết lý Âm
Dương Ngũ Hành chưa thể lý giải nổi. (Xin nhớ lại món bánh giò cháo quẩy làm từng
cặp tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào chảo dầu như một
cách hành tội và nhắc nhở người đời mãi mãi).
Vì thế, nói như nhà nghiên cứu rằng, “tượng vợ chồng Tần Cối còn ở đó
bên cạnh tượng người anh hùng Nhạc Phi thì hóa ra chừng nào còn người anh hùng
này thì hai kẻ xấu kia chúng vẫn tồn tại”(13) thì rõ ràng là một
cách hiểu áp đặt, xa rời ý tứ thâm sâu của Nguyễn Du!
VƯƠNG
THỊ TƯỢNG I
Thiệt
trường ba xích cánh hà vi ?
Hảo
dữ quyền gian bị xướng tùy.
Hậu
hoạn chính ân cầm hổ nhật,
Tiền
công an vấn ẩm long kỳ.
Nhất
sinh tâm tích đồng phu tế,
Thiên
cổ hình hài nhục nữ nhi.
Để
sự tưởng lai "mạc tư hữu "
Khuê
trung tư ngữ cánh thùy tri.
王氏像其一
舌長三尺更何為,
好與權奸備唱隨。
後患正殷擒虎日,
前功安問飲龍期。
一生心跡同夫婿,
千古形骸辱女兒。
底事想來莫須有,
閨中私語更誰知。
TƯỢNG
VƯƠNG THỊ I
Lưỡi
dài ba tấc của thị để làm gì? Khéo cùng với tên quyền thần gian ác kết làm vợ
chồng. Cái ngày bắt được cọp chính là ngày trừ được mối lo về sau, Hỏi làm gì
cái công ước hẹn uống rượu mừng ở Hoàng Long! Một đời bụng dạ giống hệt như chồng,
Nghìn năm hình hài thị làm nhục cho phụ nữ. Suy ngẫm kỹ lại cái việc dựng lên
cái án ba chữ: Mạc tu hữu (chẳng cần có), Hẳn là có lời nói riêng của thị trong
phòng khuê, chẳng ai biết được.
Vương Trọng dịch thơ:
Lưỡi dài ba tấc làm gì?
Khéo thay tìm kẻ gian phi làm chồng
Nhạc Phi khi đã vào tròng
Còn ai nghĩ đến Hoàng Long uống mừng
Với chồng -
một cốt, một đồng
Hình hài muôn thuở đau lòng nữ nhi
"Không cần có tội" - án phê
Biết đâu lời thị buồng the với chồng!
Bài thơ này, mới xem qua, tưởng đâu chỉ là
một tiểu ký sự về chân dung về người đàn bà, kẻ tòng phạm thủ ác với chồng là Tần
Cối, qua thị để kể lại lịch sử: Tống bị Kim xâm lăng, Tần Cối cầm đầu bọn chủ
hòa. Nhạc Phi chủ trương đánh, và khi cầm quân đánh Kim, có hẹn với tướng sĩ rằng:
Thẳng đến Hoàng Long cùng các ngươi uống chén rượu mừng công. (Hoàng Long là
kinh đô nhà Kim, nay ở tỉnh Liêu Đông). Tần Cối giả lệnh vua, bắt Nhạc Phi hạ
ngục. Với lời thì thào bàn bạc của vợ, coi như bắt được cọp rồi, nếu để thoát,
e có mối lo về sau, Tần Cối lấy tội danh “không cần có” (mạc tu hữu) mà giết chết
hai cha con Nhạc Phi.
Chỉ vài nét điểm sơ lược gợi lại lịch sử
như thế mà người đọc đã hình dung ra tất cả tấn bi kịch đau đớn của người anh
hùng và chiến hữu, bởi chúng được lồng một cách khéo léo, tài nghệ, qua mấy nét
vẽ chân dung ký họa thực sống động về Vương Thị. Cái chân dung đó bắt đầu bằng thiệt trường tam xích. Thời xưa, người
Trung Quốc quan niệm thân người trung bình đo được là thất xích (bảy thước
Tàu), vậy mà Vương Thị lưỡi dài tam xích, nghĩa là bằng gần một nửa thân người!
Lưỡi dài ba tấc, được tác giả gắn vào câu hỏi tu từ phiếm chỉ: cánh hà vi - để làm gì thế? và cũng bắt
đầu bộc lộ một thái độ ghê tởm, kinh sợ. Cái logic của câu chữ - hình tượng diễn
ra hợp lý và giản dị đến độ không ngờ: để làm gì, để khéo cùng với tên quyền thần
gian ác kết làm vợ chồng, ngưu tầm mưu, mã tầm mã! Hai câu đề đã khái quát toàn
bộ thực chất nhân cách của đôi vợ chồng này bằng thái độ thẩm mỹ & lý tưởng
xã hội của tác giả. Từ đây, nhà thơ sẽ diễn dịch cái cảm giác, suy nghĩ, đánh
giá của bản thân đã kịp truyền cảm sang người đọc về thân phận, lai lịch người
đàn bà khủng khiếp từng sát cánh bên kẻ hãm hại người trung lương ra sao.
Hai câu thực như một hình dung rõ rệt trước
mắt nhà thơ về sự hý hửng độc ác của người đàn bà khi người anh hùng bị sa lưới,
và ông nhìn thấu tim đen của mụ, trong một tiếng thở dài kín đáo: Cái ngày bắt
được cọp chính là ngày trừ được mối lo về sau, Hỏi làm gì cái công ước hẹn uống
rượu mừng ở Hoàng Long!
Rồi ông căm giận hạ hai câu luận, đánh giá
trực tiếp về “nhân cách sói cái” của thị: Một đời bụng dạ giống hệt như chồng,
Nghìn năm hình hài thị làm nhục cho phụ nữ. Sử sách từng kể Vương Thị là là kẻ
nham hiểm, đã đem bỏ thuốc độc vào ba trăm hũ ngự tửu của vua đưa qua Bộ Lễ
niêm phong để ban thưởng cho Nhạc Phi và quân sĩ, cũng may là quân của Nhạc Phi
phát giác kịp thời. Vương Thị cũng là một cố vấn đắc lực cho Tể tướng Tần Cối,
đưa ra nhiều mưu sâu kế độc như không phát thêm lương thảo cho Nhạc Phi khi ông
đang cầm quân đánh Kim… Cái lưỡi dài ba tấc của thị chính là cái lưỡi của loài
rắn độc mang hình người làm nhục cho nữ giới, đáng muôn đời nguyền rủa. Tội lỗi
lớn nhất của thị là bằng cái lưỡi rắn đó thì thào trong phòng riêng vợ chồng
góp phần tạo ra một cái án kinh thiên động địa hiếm có, theo sự suy ngẫm của
tác giả ở hai câu kết: Để sự tưởng lai
"mạc tu hữu"/ Khuê trung tư ngữ cánh thùy tri. Suy ngẫm kỹ lại
cái việc dựng lên cái án ba chữ: Mạc tu hữu (chẳng cần có), Hẳn là có lời nói
riêng của thị trong phòng khuê, chẳng ai biết được. “chẳng ai biết được” (cánh
thùy tri) là một cách nói giảm khinh, tưởng đâu giúp thị lấp liếm tội lỗi phần
nào, nhưng thật ra là giáng thêm cho thị một cái tát thích đáng bởi sự khẳng định
“Khuê trung tư ngữ” ngay đầu câu như một sự lật bài ngửa đã chặn trước!
Dường chưa hả giận, nhà thơ còn viết tiếp
bài thứ hai về người đàn bà độc ác, và lần này, từ những ký họa phác thảo ở
trên, ông vẽ lên một chân dung toàn diện về mụ, “dựng” lên một “tượng-mộ” thứ
hai bằng ngôn từ - bên bức tượng sắt quỳ ô nhục của mụ.
VƯƠNG
THỊ TƯỢNG II.
Thâm
đồ mật toán thắng phu quân.
Ưng
thị "thần kê " đệ nhất danh.
Bất
lạn sĩ sinh tam thốn thiệt.
Thuần
cương hoàn đắc vạn niên thân.
Xướng
tùy tận đạo ưng vô hối,
Kỹ
lưỡng đồng niên cánh khả thân.
Mạc
đạo nữ nhi vô lực lượng,
Dã
tằng hám phá Nhạc gia quân!
王氏像其二
深圖密算勝夫君,
應是晨雞第一人。
不爛已生三寸舌,
純綱還得萬年身。
唱隨盡道應無悔,
伎倆同年更可親。
莫道女兒無力量,
也曾撼破岳家軍。
TƯỢNG
VƯƠNG THỊ II
Mưu mô
tính kế sâu kín hơn cả chồng, Đúng là bậc nhất trong loại “gà mái gáy sáng”.
Sinh ra là đã có có ba tấc lưỡi bất hủ, Lại có cái thân bằng gang thép muôn năm
bền vững. Trọn đạo xướng tùy hẳn không có gì phải hối hận, Gian ác như nhau,
nên lại càng ăn ý với nhau hơn. Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh, Chính thị đã
từng phá tan quân của họ Nhạc.
Vương Trọng dịch thơ:
Mưu mô thị vượt cả chồng
" Mái gà gáy sớm", thật không ai bằng!
Dài ba tấc lưỡi vạn năng
Thân gang thép đúc, ngàn năm chẳng sờn
Xướng tuỳ, được thế gì hơn
Cùng gian, cùng ác dễ thường kết nhau
Đàn bà sức lực kém đâu:
Đánh tan Nhạc tướng, công đầu thị đây!
Liên 1, tác giả nói ngay đến bản chất mưu
mô thâm hiểm xảo quyệt của Vương Thị, mà theo ông còn vượt xa chồng, Đúng là bậc
nhất trong loại “gà mái gáy sáng”! Chữ Thần
Kê lấy từ câu Tẫn kê tư thần
trong sách cổ, ý nói gà mái gáy sớm, chỉ người vợ lộng quyền trong nhà. Nhưng lộng
quyền trong triều đình, tham dự vào chính sự với trái tim đen ngòm thì quả là một
tai họa khủng khiếp đối với quốc gia!
Liên 2, mấy chữ tam thốn thiệt như điệp lại với mấy chữ thiệt trường tam xích ở bài I nhằm đặc tả cái lưỡi dài ba tấc tượng
trưng lưỡi của loài rắn độc, có điều tác giả nhấn mạnh rằng, sinh ra mụ đã có
cái lưỡi bất hủ mang bản chất của thú dữ như thế! Cái lưỡi mềm không xương chứa
nọc độc này thấm đầy máu của bậc trung thần, lại được tác giả đưa ra làm đối xứng
với cái hình nhân bằng sắt thép muôn năm bền vững dành cho người đời vạn thuở
khạc nhổ, đánh đập - một thứ công đối hình ảnh đầy hiệu quả nghệ thuật, tác động
mạnh tới ấn tượng và cảm nghĩ của người đọc. Từ cơ sở này, nhà thơ đi tới luận
về chủ thể vịnh:
Trọn đạo xướng tùy hẳn không có gì phải hối
hận, Gian ác như nhau, nên lại càng ăn ý với nhau hơn - Xướng tùy tận đạo ưng vô hối/ Kỹ lưỡng đồng niên cánh khả thân.
Chú ý cách dùng từ của tác giả: trọn đạo
xướng tùy, đạo vợ chồng; nhưng mỉa mai chua xót thay, cái đạo vợ chồng như Khổng
học đã dạy “phu phụ hòa kính”- chồng vợ hòa thuận kính trọng nhau mà Hán nho cải
thành “phu xướng phụ tùy”- chồng xướng vợ theo, đối với hai vợ chồng Tần Cối đã
biến thành thứ đạo của bọn bất lương “mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường” (Kiều)
quen thói mua bán đổi chác quyền lợi ích kỷ trên xương máu của người lương thiện
và bậc trung thần! Bởi thế, chúng chẳng có gì mà phải hối hận (ưng vô hối), ngược
lại, vì bản tính gian ác như nhau, nên lại càng ăn ý với nhau hơn, và chúng có
cái hạnh phúc riêng, có tiếng cười hả hê riêng của chúng trên số phận đau
thương quốc gia và của đồng loại. Sự phán xét của Nguyễn Du về đạo lý làm người
thông qua cách mỉa mai đó thực thâm trầm, nghiêm khắc và giàu sức khái quát.
Với hai câu kết, tác giả phác nét vẽ cuối
cùng hoàn chỉnh chân dung người đàn bà gian ác: Mạc đạo nữ nhi vô lực lượng/Dã tằng hám phá Nhạc gia quân! Chớ bảo
đàn bà không có sức mạnh, Chính thị đã từng phá tan quân của họ Nhạc!
Nhạc Gia quân tức quân họ Nhạc. Quân Kim rất
sợ Nhạc Phi, thường bảo nhau: Chuyển núi thì dễ, phá quân đội của Nhạc Phi thì
khó. Nhạc Phi bị giết trong ngục, từ đó đội quân của ông tan rã. Sức mạnh của
Vương Thị là sức mạnh phá hoại, thiêu hủy những gì vốn là kết quả của lòng dũng
cảm, sự hy sinh, hàng đống xương máu của những người ái quốc trung quân trong
thời kỳ ấy, và ảnh hưởng của thị chắc cũng không phải là ít trong sự phá hoại
luân thường đạo lý xã hội nhiều thời đại sau. Vì thế, thị cần được/ bị bêu để
“làm gương” cho bọn nữ “loạn thần” trước công luận bằng bức tượng-mộ ô nhục
kia! Làm tới hai bài thơ vịnh về thị, phải chăng Nguyễn Du muốn gửi gắm cả niềm
tâm sự đó? Thị có tội lớn ngang với chồng mình trước lịch sử và sự phán xét của
lương tri, nhưng chắc hẳn thị còn đáng trách hơn đối với Nguyễn Du, bởi thị nằm
trong cái giới nhân sinh mà bản thân ông bao giờ cũng trân trọng và dành cho những
tình cảm thắm thiết trĩu nặng: Đau đớn
thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung! (Kiều) Đau đớn thay phận đàn bà. Hỡi ôi thân ấy biết
là mấy thân! (Văn tế thập loại chúng sinh).
***
Chúng tôi vừa điểm qua 5 bài thơ của Nguyễn
Du viết tại Đền Nhạc Phi ở Hàng Châu ) và thêm. Có điều cần
lưu ý là, mặc dù Nhạc phi cũng có tượng ở trong khu đền, song Nguyễn chỉ viết về
mộ của ông (Nhạc Vũ Mục mộ), trong
khi đó viết tới 4 bài về tượng hai nhân vật phản diện (Tần Cối tượng, Vương Thị Tượng). Có cảm giác: ấn tượng nặng nề qua
bốn bài này lấn át cảm xúc bài đầu viết về người anh hùng. Song, thực tế là, sự
nặng nề đen tối toát ra từ hình tượng về các mộ-tượng kỳ dị kia lại có tác dụng
làm nổi bật lên các điểm sáng trong nhân cách và võ công của Nhạc Phi mà qua
cách miêu tả và bộc lộ cảm xúc, nhân vật lịch sử này được Nguyễn Du coi trọng,
đánh giá cao không kém các nhân vật văn hóa-lịch sử khác như Khuất Nguyên, Đỗ
Phủ, Văn Thiên Tường, Liêm Pha, Tỷ Can, Dự Nhượng, v.v. Đối với các nhân vật phản
diện, nhất là những kẻ nhuốm đầy máu trung thần nghĩa sĩ và người dân lương thiện,
lúc nào ông cũng có thái độ tẩy chay, đối kháng, phủ nhận kịch liệt, như trong
các bài Phản chiêu hồn, Kỳ lân mộ, Tần Cối
tượng… dường như khác hẳn với con người đa cảm và suy tưởng ta thường thấy.
Với chùm thơ này, Nguyễn lại thêm một lần bộc lộ rõ rệt không chỉ tầm vóc tư tưởng,
chiều sâu tâm hồn, mà cả bản lĩnh văn hóa cùng tài năng nghệ thuật của một nhà
văn-nghệ sĩ. Đọc ông viết về những kẻ học đòi ông Cao, ông Quỳ mà miệng ngậm đầy
máu người, về những kẻ mang trái tim chứa đầy nọc rắn độc như vua Trụ, Tần Thủy
Hoàng, Minh Thành Tổ, Tần Cối, Vương Thị… chúng ta có thể hiểu cái thông điệp
ngầm của ông về cái nghịch lý của sự “bất tử” đối với người đời sau: cuộc đời hữu
hạn này là đáng quý, và một khi con người ta sống tử tế, lương thiện, tâm
thành, thì sẽ có khả năng lưu lại trường cửu trong lòng hậu thế, và nếu có tài
năng công đức lớn, sẽ được dân xây đền thờ hương khói ngưỡng vọng đời đời; còn
ngược lại, tâm địa xấu xa, hành xử như thú dữ với đồng loại thì dân sẽ “đái ngập
mồ thấu xương”, việc bị đúc tượng-mồ bằng sắt thô đóng cũi bêu ô nhục cho muôn
đời sẽ không chỉ diễn ra ở một ngôi đền Nhạc Phi! Đó cũng là một sự cảnh báo và
nhận diện cái ác của đại thi hào, kêu gọi nhân loại hãy cảnh giác với những kẻ
có trái tim đen tối, dù chúng có khoác cái mặt nạ tử tế nhân hậu gì và ở bất cứ
cương vị xã hội nào!
Đọc
thơ Nguyễn Du vịnh những bức tượng-mộ này, rồi sau đó tận mắt được “chiêm ngưỡng”
chúng, bất chợt chúng tôi liên tưởng tới những điều triết gia Hêghen nói về nghệ
thuật điêu khắc, ông viết rất hay và kỹ lưỡng tới hàng trăm trang sách về “điêu
khắc lý tưởng” trong các tư thế, các góc nhìn, các bộ phận tượng, các cá tính,
các đề tài, các y phục, các lứa tuổi và giới tính, các chất liệu làm tượng…(14)
Trong tất cả các chất liệu điêu khắc cổ điển sử dụng được triết gia Đức liệt
kê, như cẩm thạch, đá hoa cương và các loại đá khác, gỗ, ngà, vàng, đồng thau,
ngọc, thủy tinh, đất sét…, chúng ta không hề thấy ông nhắc đến sắt. Chỉ tới
điêu khắc hiện đại và hậu hiện đại người ta mới dùng tới chất liệu sắt, thép
(dĩ nhiên là sắt thép không rỉ); còn thời cổ - trung đại ở Trung Hoa và các nước
Á Đông, có lẽ duy nhất chỉ tại Đền Nhạc Phi người ta mới sử dụng sắt thô để làm
tượng đặt dưới nền đất mà thôi! Sắt thô có khả năng bền vững với thời gian (thế
mà cũng đã phải đúc đi đúc lại tới hơn chục lần trước sự trút bỏ căm giận của
người đời), và điều quan trọng là chỉ chất liệu đó mới thể hiện hết được tính
chất tàn nhẫn, vô lương, sắt máu của bản tính nhân vật trong tư thế quỳ nhục
nhã. Nếu Hêghen lúc viết công trình Mỹ học
được tới Trung Hoa, đến thăm mấy bức tượng-mộ rất đặc biệt này, chắc hẳn ông sẽ
có cả một chương sách về chúng “làm ngây ngất” người đọc. Nhưng tiếc thay, ông
đã không có dịp tới đó. Và đại thi hào Việt Nam đã thay triết gia phương Tây
làm công việc này, bằng những thi phẩm tuyệt tác giàu tính triết luận có khả
năng tham gia vào cuộc chiến sinh tử thanh tẩy sự xấu xa độc ác và giành giật lại
nhân tính cho Con người.
________________________
Những trích dẫn thơ chữ Hán Nguyễn Du và giải
thích, dịch nghĩa chủ yếu lấy từ nguồn: Nguyễn Du toàn tập, tập II. Mai Quốc Liên, Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích. Nxb Văn học 2105.
1. Theo
vi.wikipedia
2. https://www.dkn.tv/van-hoa/ham-hai-nhac-phi-tuong-quy-cua-vo-chong-tan-coi-duc-di-duc-lai-13-lan-nghin-nam-khong-duoc-dung-day.html
3. Nguồn:
Vanhoanghean. Nguyễn Du viết về Nhạc Phi.
4. Nguồn:
thivien.net - Bản dịch của Phan Lang.
5. Viện
hàn lâm KHXH.VN, Viện văn học. Di sản văn
chương đại thi hào Nguyễn Du: 250 năm nhìn lại. NXB Khoa học xã hội, 2015 (Một giả thiết khác về hành trình đi sứ của
Nguyễn Du năm 1813 - 1814. tr.283 - 290 )
6.
Hêghen. Mỹ học. Phan Ngọc giới thiệu
và dịch. Tập 2. Nxb Văn học HN 1999,
tr.209
7. Như
trên, tr.156
8. Như
trên, tr.187
9. Như
trên, tr.203
10. Roger Scruton. Dẫn luận về cái đẹp. Thái An dịch. Nxb Hồng Đức, HN 2016, tr.
249
11. Như
trên, tr. 272
12, 13.
Lê Thu Yến, Nguyễn Du và những nhân vật lịch
sử Trung Quốc (Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Những
lằn ranh văn học. ĐH Sư phạm TP.HCM xuất bản, 2011, tr.501 )
14.
Hêghen. Mỹ học. Sđd (Chương II: Điêu khắc, từ tr.134-tr.234).
Chú thích ảnh:1. Cổng đền Nhạc Phi ở Hàng Châu2. Tranh về lòng dân đối với Nhạc Phi
Chú thích ảnh:1. Cổng đền Nhạc Phi ở Hàng Châu2. Tranh về lòng dân đối với Nhạc Phi
3. Tượng Nhạc Phi trong đền4. Tượng vợ chồng Tần Cối - Vương thi( Ảnh của MA.NAT)
Tác giả gừi bài
VANDANBNN gt
Tác giả gừi bài
VANDANBNN gt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét