(32 KHÚC ĐÒ ĐƯA THƠ VÀ
VĂN XUÔI)
NGUYỄN VĂN HÒA
NXB HỘI NHÀ VĂN
CON TẰM RÚT RUỘT NHẢ
TƠ
19. NGUYỄN THÀNH NHÂN
MÙA XA NHÀ VÀ NHỮNG
GÓC NHÌN KHÁC VỀ CHIẾN TRANH
(Nhân đọc tiểu thuyết
Mùa xa nhà của Nguyễn Thành Nhân,
Là một trong số các
tác giả của nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Thành Nhân để lại cho bạn đọc
những ấn tượng khá sâu đậm về một nhà văn mang đầy chất lính và mang nét lãng
tử của người Sài Gòn. Tôi biết anh, đọc khá nhiều tác phẩm của anh nhưng có lẽ
tiểu thuyết Mùa xa nhà là tập sách để lại cho tôi nhiều ấn tượng nhất.
Mùa xa nhà là những
trang viết chân thực nhất, sinh động nhất, thành tâm nhất của một người lính,
một người từng có những năm tháng gắn bó và chiến đấu trên chiến trường Tây Bắc
Campuchia (Quân tình nguyện Việt Nam sang giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi
chế độ diệt chủng Khmer Đỏ). Nơi đó đã gắn với không biết bao nhiêu kỉ niệm vui
buồn của anh, của đồng chí, đồng đội anh, của kẻ thù và cả những con dân trên
đất nước Campuchia. Là người lính trực tiếp tham gia chiến đấu trong những
tháng ngày gian lao, nhọc nhằn nơi biên giới, lại là người có đời sống nội tâm
phong phú nên điều gì xảy ra cũng để lại cho anh ấn tượng khó phai mờ. Nguyễn
Thành Nhân may mắn và hạnh phúc hơn những người đồng đội, đồng chí của mình,
anh còn sống trở về quê mẹ (08/1987). Đúng 10 năm sau (1997) anh bắt đầu viết
Mùa xa nhà. Trở về sau cuộc chiến, có độ lùi về thời gian, Nguyễn Thành Nhân đã
chiêm nghiệm, suy ngẫm về những được mất, những mặt trái của cuộc chiến, về
tình người, về những giá trị đạo đức, về những sự thật cần phải biết, phải
viết, phải nói, phải kể. Đó là cách để anh cảm thấy lòng mình nhẹ hơn, thanh
thản hơn. Để những người đồng đội của anh đã ngã xuống cũng cảm thấy ấm lòng vì
họ đã một thời sống và chết như thế. Những sự thật đã được nhà văn thuật lại
một cách trung thực nhất (dù rằng có thể đó là những điều không hay mà lâu nay
người ta không nói, ngại nói hoặc không dám nói). Nguyễn Thành Nhân đã dành cả
tâm huyết và sự nghiêm túc, cẩn trọng trong từng chi tiết để hoàn thành tiểu
thuyết Mùa xa nhà trong khoảng thời gian 3 năm (1997 - 1999).
Một người lính trở về
sau cuộc chiến như Nguyễn Thành Nhân, trở về với cuộc sống đời thường nhưng anh
không bao giờ nguôi quên những tháng năm gắn bó với những người đồng đội, với
người dân Campuchia. Đó không chỉ là ký ức, mà còn là những cảm nhận và sự suy
ngẫm về những tổn thương, mất mát, nỗi đau do chiến tranh gây ra.
Nhiều thanh niên lên
đường vì trách nhiệm công dân và làm nghĩa vụ quốc tế với nước anh em láng giềng.
Đó là điều đáng trân trọng. Những người lính trong đội quân tình nguyện này đa
phần trẻ tuổi, mới mười tám đôi mươi. Họ để lại đằng sau là gia đình, người
thân, quê hương với bao nỗi thương nhớ quặn lòng. Tiếc rằng, có người đã vĩnh
viễn nằm lại, người may mắn sống sót trở về mang trên mình những vết thương và
nỗi đau do chiến tranh gây ra.
Người đọc dễ nhận ra
trong tiểu thuyết Mùa xa nhà, nhà văn Nguyễn Thành Nhân dám nhìn thẳng vào sự
thật, nói lên tất cả những bi kịch, những góc khuất của cả một thời đoạn lịch
sử, từ đó mang đến cho bạn đọc một cái nhìn mới mẻ, chân thực và đầy đủ về cuộc
chiến đã qua.
Nhà văn xây dựng hai
nhân vật xuyên suốt tác phẩm đó là Huy và Quân. Ở đó, có chính bóng dáng nhà
văn mà nhân vật Huy là một minh chứng. Cuộc đời người lính của Huy được nhà văn
tái hiện đầy đủ từ khi anh vào đơn vị cho đến khi ra quân. Huy là một chiến sĩ
vận tải rồi thành xạ thủ súng máy 12.7 ly trước khi trở thành chỉ huy trung đội
hỏa lực 12.7 trực thuộc tiểu đoàn. Đó là chặng đường đầy chông gai, thử thách,
gian khổ, nhọc nhằn. Huy được tôi luyện trong môi trường quân đội nên từ một
cậu thanh niên Thành phố gầy gò, thư sinh, vô tư, hồn nhiên trở thành người
chững chạc, giàu trải nghiệm và hiểu biết lẽ đời. Huy có may mắn hơn nhiều
những người lính khác là dù chuyển qua nhiều đơn vị, ở những vị trí khác nhau
nhưng Huy được nhiều người yêu mến, không chỉ đồng chí đồng đội của anh mà bà
con nơi anh đóng quân cũng thương quý.
Những trang văn của
Nguyễn Thành Nhân cứ như những thước phim quay chậm mà ở đó lần lượt hiện diện
từ cảnh vật đến con người với nhiều cung bậc, thanh âm và sắc màu khác nhau.
Tính cách, suy nghĩ, hành động, của từng người dần được mở ra. Những cái tên
Quân, Trường, Chí phèo, Nhu, Phước, Danh, Lý, Vũ, Minh, Hòa, Chí, Phúc, Văn, Ụ Mối,
Phương, Vụ, Dung B trưởng B5, Bình, Kiên, Đạt, Phái điển, Trung gấu, Trung
liều, Thiện, Tiến cóc, Bình, Hưng, Mợi, Lý, Thái, Phú, Trọng, Cường, Thuận kều,
Già Hương, Sơn, Lê Văn Z... được nhà văn nhắc đến. Từ cái nhìn của người trong
cuộc, người lính hiện lên với đầy đủ những nét đáng yêu và cả những gì đời
thường, trần trụi nhất. Họ đến từ nhiều vùng miền khác nhau, trong nhiều hoàn
cảnh khác nhau nhưng sống chân thành, gắn bó san sẻ những khó khăn trong sinh
hoạt, giúp đỡ nhau trong những lần hành quân, kể cho nhau nghe về hoàn cảnh của
mình, bày tỏ những suy nghĩ thành thật nhất của chính họ...
Già Hương kể anh đã
từng có ý định trốn không đi lính nhưng vợ anh là con của một nhà cách mạng
nòi, đã động viên thuyết phục anh và hứa sẽ chung thủy nuôi con đợi ngày anh
về. Với lại, chị không muốn có một người chồng phải trốn chui tốn nhủi, mặt mày
la lét, sợ từ đứa con nít sợ đi.
Đọc những trang nhật
ký của Huy, hay những lời đối thoại giữa Huy với Quân hay với đồng đội, người
đọc nhận ra sự trải lòng của người lính trẻ với ngổn ngang tâm sự:
“Tại sao mình lại đánh
nhau ở đây anh Quân? Sao mình không để bộ đội K tự lo lấy chuyện của họ? Em có
nghe anh Ngô chính ủy trung đoàn giải thích vấn đề này rồi, nhưng em thấy nó
sao sao đó, không thuyết phục. Mấy bữa trước em qua nghe ké "ra-dô"
bên đại đội 13, anh Vụ có mở đài Pol Pot nghe xem chúng nói gì. Mẹ kiếp! Chúng
chửi quân tình nguyện Việt Nam mình là lũ xâm lược, chả khác gì mình chửi lính
Mỹ trước đây. Liệu người dân Campuchia có coi mình là lũ ngoại bang xâm lược
không anh?
- Bản chất những người
lính tụi mình khác với bản chất những người lính Mỹ. Anh nói khác ở đây không
phải là về cái tốt hay cái xấu. Khác là ở nền văn hoá, ở tư tưởng, quan niệm,
truyền thống dân tộc. Lính Mỹ không hiểu dân Việt, do đó, hoặc họ sợ hoặc họ
coi thường, khinh rẻ dân ta. Còn chúng ta và dân Campuchia không khác gì nhau
mấy, chúng ta và họ có cùng một nền tảng, bản sắc văn hoá như nhau. Chúng ta
hiểu họ, thương mến họ. Và những người dân chất phác này cũng hiểu và thương
mến chúng ta. Còn như tại sao chúng ta lại phải chiến đấu thế này, là một
chuyện không dễ nói. Đúng là nếu chúng ta sớm rút quân về thì tốt hơn, nhưng
tình thế hiện nay rất nhiều chuyện rối ren. Em cũng không nên thắc mắc dằn vặt
làm chi. Nói cho cùng, chúng ta chỉ là những hạt cát bị cuốn theo vòng xoay của
thời đại, của lịch sử thôi Huy”.
Nhiều khi nó như sự
truy vấn chính anh, đôi lúc tưởng như mâu thuẫn nhưng lại hoàn toàn có lý với
một người lính vốn đa cảm như Huy.
Mô tả về những bài thơ
của Quân và lời đề nghị trong trang đầu cuốn sổ nhật ký "Nếu tôi chết, và
ai đó nhặt được cuốn sổ này, xin làm ơn đốt nó giùm tôi." làm tôi xúc
động. Lằn ranh mong manh giữa sự sống và cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào,
có lẽ Quân dự cảm trước điều đó. Hoàn cảnh gia đình và thời cuộc cũng tạo cho
Quân nhiều trăn trở, đau đáu. Việc anh nhường suất về phép cho đồng đội vì anh
không còn gia đình, người thân ở quê nhà lại làm cho người đọc rưng rưng. Tưởng
tình yêu giữa anh và Sa Piên sẽ đơm hoa kết trái nơi đất khách nhưng cũng lại
bất thành, có lẽ bởi anh quá chân thành và nghiêm túc? Buồn nhất là Quân đã ra
đi mãi mãi khi anh chưa được hưởng những gì tốt đẹp nhất mà đời đã dành cho
anh.
Nhưng bên cạnh đó cũng
có những người không tốt, họ ích kỉ, chỉ biết đến mình mà không nghĩ đến đồng
đội và những người xung quanh. Một anh Bảo cán bộ tiểu đoàn nóng nảy hay đánh
lính, một anh Dung B trưởng B5 hèn nhát, một anh Lý sát gái và đã gây ra những
tổn thương lớn đối với gia đình Me Sa Rinh, púc Hô và cô Sa Piên. Đặc biệt nhất
là Lê Văn Z, người lính này đã làm một việc không ai tưởng nổi là hãm hiếp, và
sát hại nhiều thường dân. Người lính biến chất này đã làm cho dân làng nơi đây
căm hận, và họ ghét lây cả những người lính tình nguyện Việt Nam.
“Dân làng vô cùng căm
phẫn và đau xót, họ nguyền rủa bộ đội Việt Nam, đòi được tự tay xử tội Z, trả
thù cho người thân của họ. Không khí trong phum thật nặng nề, u ám. Bao nhiêu
công lao, bao nhiêu mồ hôi và máu của những đơn vị quân tình nguyện đổ ra,
trong thoáng chốc trở nên vô nghĩa chỉ vì một cá nhân. Tình cảm gắn bó giờ đây
bỗng có một khoảng cánh ngăn chia không dễ gì hàn gắn lại.
Sự vụ được báo cáo
khẩn trương lên cấp trên, lên tới chỉ huy cao nhất của Mặt trận. Bản báo cáo
nêu rõ những đòi hỏi của dân chúng, và kiến nghị tổ chức Tòa án quân sự đặc
biệt xét xử và thi hành án tại chỗ và ngay lập tức để xoa dịu lòng dân. Hội
đồng quân pháp Mặt trận ngay sau đó đã ra quyết định xét xử Z ngay tại phum Cần
Đan”.
Giọng điệu trong tiểu
thuyết của Nguyễn Thành Nhân trữ tình xót xa khi nói về đề tài chiến tranh và
số phận bi kịch của những con người chịu sự tác động sâu sắc của hoàn cảnh lịch
sử. Lại có giọng triết lý của một người giàu trải nghiệm, nếm trải những nhọc
nhằn của người lính xa nhà, xa Tổ quốc.
“Cái chết đến dễ dàng
như vậy hay sao?” Câu hỏi như một mũi khoan cứ xoáy mãi, xoáy mãi trong tâm trí
của Trung. Nó rít lên lúc anh đang ngồi ăn, đang đi đứng, đang nói năng, đang
làm bất cứ chuyện gì. Trung hiểu con người thì phải chết. Anh đã thấy bà nội
mình qua đời như thế nào trong căn nhà thấp lụp xụp ven biển của bà. Anh cũng
đã thấy những cái chết khác, của những người quen hay lạ xung quanh. Nhưng anh
chưa từng biết về một cái chết đến đột ngột, vô cùng đột ngột trong thoáng chốc
như vậy. Chỉ trong thoáng chốc, một con người khỏe khoắn, nhân hậu, yêu thương
anh và được anh yêu thương không kém chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy, trơ
trơ, vô cảm.
Rồi Trung chợt giật
mình khi nhớ lại chính bản thân mình sau lúc đó. Anh đã bắn, không phải là chỉ
thiên, mà là thẳng vào những thân người. Trung biết đã có những thân người đổ
gục xuống sau tràng đạn của anh. Đó là kẻ địch, quân thù. Đó là bọn dã man tàn
ác đã giết chết Trung A trưởng – Trung biết rất rõ điều này. Nhưng anh vẫn có
một cảm giác gì đó ghê tởm chính mình, khi nhìn xuống bàn tay. Bàn tay này đã
nhuốm máu rồi! Do chính bàn tay này mà có những người vợ mất chồng, những đứa
con mất cha, những người lính mất đồng đội!…”
Qua mô tả một trận
đánh chủ yếu, tính chất phù du, vô nghĩa, nhưng cũng rất thật và trần trụi của
chiến tranh nói chung cũng hiện ra rất rõ:
“Khói đạn mù mịt chẳng
bao lâu đã tỏa ra phủ một vùng rộng quanh chiến địa. Địch bị thương vong nhiều
hơn, nhưng chúng quá đông và cố mở đường chạy về đông để thoát gọng kìm của
trung đoàn ở phía trên đang dồn xuống, nên lớp này vừa gục xuống, những xác
chết đã trở thành vật che chắn cho lớp sau bò lên. Quãng cách giữa hai bên ngắn
dần. Phía đại đội 13, đã có một số chết và bị thương. Cối, ĐKZ của Tiểu đoàn từ
bên kia bờ suối rót qua đều huốt ra sau lưng địch, hoặc nếu hạ tầm thì lại
vướng vào những bụi cây ven bờ suối.
Trận đánh kéo dài được
hơn một tiếng, thế yếu ngày càng nghiêng về phía đơn vị lính tình nguyện Việt
Nam. Đội hình của họ bị chẻ nhỏ ra, rồi lần lượt bị đánh tan tác.
Lúc này mạnh ai nấy
bắn, chẳng còn hàng lối trật tự gì. Khẩu 12 ly mỗi lần khạc lửa lại quét ngã
một lớp địch đang cố xông lên. Lúc đầu nổ súng, Thuận bắn. Nhưng mảnh một quả B
nổ gần găm vào vai làm anh ngã qụy. Quân vội giao khẩu AK cho Huy, đỡ Thuận ra phía
sau, rồi quay lại khẩu súng tiếp tục bắn.
Nói về tình cảnh của
đại đội 13 khi ấy, mọi chuyện cũng bi đát không kém. Hàng ngũ của đại đội đã
rối bời. B trưởng B7 và B8 đã chết, gần hai phần ba quân số đại đội bị thương
hoặc hy sinh. Những người còn sống sót cố cầm cự một cách yếu ớt, và đã dạt
xuống phía sau khẩu đội. Địch tràn lên từ khắp các hướng, đằng trước, bên phải,
bên trái, đâu đâu cũng thấy lổm ngổm những tên địch đang xông tới.
Chiều hôm ấy, vào lúc
những tia nắng cuối cùng sắp tắt, một vài người dân ở mấy phum lân cận còn nán
lại trên đồng đã trông thấy một đoàn xe bò mười mấy chiếc đi ngang qua chỗ họ,
kéo theo một lớp bụi xám mờ tỏa lên nền trời tím đỏ, trên mỗi xe có hai hoặc ba
xác chết bộ đội Việt Nam, bên trên phủ một tấm nylon màu xanh nhạt. Chẳng bao
lâu, dân trong vùng đã biết rằng có rất nhiều lính Việt Nam chết trong một trận
đánh vào buổi sáng mùa thu ấy. Họ kể chuyền cho nhau nghe, mỗi người lại thêu
dệt thêm thắt những chi tiết về tính nết, vẻ mặt người này, chuyện tình người khác.
Trận đánh trở thành một huyền thoại bi thương, và mỗi người dân đều tưởng chừng
như mình có quen biết, thân tình với một ai đó trong số những người lính đã hy
sinh”.
Giọng điệu triết lý
trong tiểu thuyết của Nguyễn Thành Nhân được thể hiện khá rõ nét. Những ý nghĩa
rút ra từ chính cuộc sống thường nhật của con người thông qua phát ngôn của
nhân vật hay lời của người kể chuyện. Chất triết lý thể hiện trong rất nhiều
chủ đề khác nhau như khi chính tác giả hay nhân vật luận bình về thời thế, về
tình yêu, hạnh phúc... Nó cho thấy một sự trải nghiệm và suy ngẫm sâu sắc về
cuộc đời. Bên cạnh cái ác là cái thiện, bên cạnh sự hủy diệt là mầm sống tương
lai đang nảy chồi, bên cạnh sự tàn bạo của chiến tranh là hàng vạn, hàng ngàn
mối quan hệ tốt đẹp của con người. Đó là tình cảm của những người lính tình
nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia với nhân dân nước bạn, tình cảm của
những người dân dành cho những người lính xa nhà...
Nhưng bao trùm lên
toàn bộ cuốn tiểu thuyết vẫn là nỗi buồn, nỗi buồn của sự mất mát, nỗi buồn của
sự chia ly, nỗi buồn của những sự việc xảy ra không như ý muốn, nỗi buồn của
tình người không trọn... Tất cả là những chuỗi thanh âm buồn. Để rồi những
người lính may mắn sống sót trở về sau chiến tranh, bên cạnh vết thương thể xác
họ còn mang những vết thương lòng không bao giờ lành. Sự day dứt, thương nhớ
đồng đội, tình người vẫn cứ âm ỉ trong tâm can họ. Những bi hùng, trớ trêu và
cả những gì thân sơ, bình dị của đất và người nơi anh đóng quân - nơi anh đi
qua vẫn cứ luôn hiện diện.
Dù viết về nỗi đau của
con người nhưng những trang viết của Nguyễn Thành Nhân vẫn đậm tính nhân văn
sâu sắc. Con người đẹp hơn trong những khát khao rất đời thường, biết trỗi dậy
từ nỗi đau và sống lạc quan hơn. Với bút pháp sắc sảo cùng với một tâm hồn nhạy
cảm, Nguyễn Thành Nhân đồng cảm đến sâu sắc và thể hiện thật xúc động nỗi đau
của họ trên từng trang viết của mình.
“Huy quan sát hai tên
tù binh. Một tên trẻ hơn trạc tuổi Huy, tên kia đã hơn ba mươi và trông lầm lì,
cau có. Huy đi tới sát bên tên lính trẻ. Anh vỗ vai hắn. Hắn quay sang nhìn
anh, ánh mắt hoảng sợ, e dè. Huy hỏi:
- Anh theo Pol Pot lâu
chưa?
- Hai năm rồi.
- Quê anh ở đâu?
- Ở dưới mạn Puốc xát.
- Có vợ con gì chưa?
- Có vợ rồi, nhưng
chưa có con.
- Sao theo địch mà
không ở nhà làm ăn đàng hoàng nuôi vợ?
- Bị bắt phải theo.
Không họ giết.
Huy nhìn thẳng vào mắt
hắn:
- Thật không?
- Tôi không dám nói
láo đâu.
Huy gật đầu. Im lặng
một lúc, anh hỏi tiếp:
- Thế anh có nhớ nhà
nhớ vợ không?
- Nhớ lắm. Tôi hay
khóc nhiều những lúc gác đêm.
- Vậy sao không bỏ
trốn về?
- Tôi sợ lính ông Hêng
Xam Rin trả thù.
- Làm gì có! Anh không
biết là ra hàng thì được khoan hồng, không bị xử phạt à?
- Không biết đâu.
Angkar nói nếu đầu hàng sẽ bị giết hay bị tù.
Huy nhìn tên lính, nét
mặt hắn hiền lành chất phác, không có vẻ gì tàn ác hay dữ tợn. Thế nhưng làm
sao biết được hắn đã làm gì. Huy lại hỏi:
- Thế có bao giờ anh
bắn giết dân, bắt đàn bà hãm hiếp chưa?
- Dạ không có, không
có đâu! – Hắn lắc đầu lia lịa, mặt tái đi.
Đến huyện lỵ, Văn đưa
ba người bị thương vào trạm xá. Mọi người còn lại tản ra dọc theo hai bên đường
nấu cơm.
Huy trầm ngâm nhìn cả
hai. Trông họ không có vẻ gì tàn ác đáng sợ. Cứ như vẻ ngoài và thái độ của hai
tên này, thì thật không tài nào hiểu được tại sao lại có những tên lính Pol Pot
dã man, khát máu, giết người như ngoé. Có lẽ khi đã bị cuốn vào trong cuộc,
những hành vi tàn bạo đã dần dần trở thành quen thuộc, thành phản xạ tự nhiên.
Người lính vốn thường là tuân lệnh. Họ như là bọn người máy chỉ hành động theo
mệnh lệnh cấp trên. Nếu cấp trên của họ là loại tàn bạo điên cuồng, thì làm sao
họ không điên cuồng, tàn bạo!”
Thông qua việc xây
dựng các nhân vật đa dạng về tính cách, số phận. Nguyễn Thành Nhân phác họa
chân dung một giai đoạn lịch sử mà trong đó con người đóng những vai khác nhau,
ở những hoàn cảnh gia đình, vùng miền khác nhau nhưng khi họ cùng chung nhiệm
vụ, cùng nếm trải những khó khăn của cuộc chiến thì tất cả họ đều như một gia
đình. Dù rằng cũng có vài cá nhân không được tốt do vì ích kỉ cá nhân, hay vì
lý do này lý do khác. Nhưng nhìn chung, họ là những con người đáng quý. Các anh
phải rời xa quê hương, gia đình, cha mẹ, vợ con, những người thân, bạn bè...
Những ước mơ giản đơn bình dị của những phận người đã bị thực tại lịch sử tàn
khốc đập vỡ tan.
Nhìn chung Mùa xa nhà
tuy chưa có những cách tân nghệ thuật báo bạo nhưng Nguyễn Thành Nhân rất thành
công trong việc phản ánh hiện thực, đặc biệt là hiện thực ở những nẻo khuất
tối, nhập nhòe giữa thiện và ác, giữa chính và tà của một thời không dễ nguôi
quên mà lâu nay người ta ngại nói, chưa nói hoặc cố tình không nói. Bằng tài
quan sát, cách miêu tả diễn biến tâm lý của các nhân vật trong tiểu thuyết đã
làm cho bức tranh hiện thực thêm sinh động. Đó không chỉ là những mặt tốt đẹp, những
nghĩa cử đáng biểu dương mà còn có cả nhưng mặt xấu đã xảy ra trong thời gian
đội quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở chiến trường Tây Bắc, Campuchia.
Khác với những tác
phẩm khác cùng viết về đề tài chiến tranh, các tác giả thường có giọng điệu
ngợi ca chiến tích, nói về những điều tốt đẹp, những mặt tích cực của cuộc
chiến, nhận diện chiến tranh với giọng hào sảng trong niềm vui chiến thắng, Mùa
xa nhà, Nguyễn Thành Nhân không theo lối mòn ấy, những trang văn chậm rãi, từ
tốn, hiền lành cứ lần lượt làm sống dậy không khí của một thời anh đã đi qua. Ở
đó, cơ bản là đau thương, với tai ương chết chóc đến từ hai phía.
Bằng những trải nghiệm
với tư cách một người lính chiến, Nguyễn Thành Nhân đã tự vấn và đặt ra một câu
hỏi với chính mình, với đồng đội, và với những thế hệ mai sau, về bản chất
chiến tranh:
“Chiến tranh rốt cuộc
chỉ để phục vụ cho mưu đồ tham vọng của những người cầm quyền. Ở những cuộc
chiến xâm lược thì điều này đã hẳn nhiên rồi, không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng
cả ở những cuộc chiến tranh giữ nước, chống ngoại xâm, hay nội chiến rồi cũng
vậy thôi. Lịch sử đã cho thấy rồi, khi cởi bỏ được ách thống trị hà khắc, bóc
lột của ngoại bang, hay đã lật đổ một chế độ thối nát nào trước đó, và đã nắm
được quyền lực trong tay, người ta thường quên đi những điều ích dân, lợi nước.
Họ, hoặc người kế thừa của họ chỉ còn nuôi tham vọng củng cố quyền uy hoặc xa
hoa hưởng thụ. Chỉ có những người dân, những người lính tầm thường là mất rất
nhiều, mà được rất ít, hoặc chẳng được gì. Trừ phi là chiến đấu vì độc lập tự
do của Tổ quốc, còn thì những cuộc chiến khác không mang tới cho họ điều gì hay
ho cả. Cái họ cần chỉ đơn giản là một mái nhà, một gia đình êm ấm, một mảnh
ruộng vườn nho nhỏ và một cuộc sống thanh bình... Biết bao nhiêu người phơi
xác, tên tuổi cũng vùi sâu vào cát bụi lãng quên, chỉ để cho một vài kẻ trở
thành những vị anh hùng lưu danh sử sách. Từ khi khái niệm anh hùng nguyên sơ
của thời cổ đại xa xưa đã trở thành một chủ nghĩa – chủ nghĩa anh hùng – nó đã
bị biến tướng, đổi thay về chất, trở nên một sự mê hoặc, một sự lừa dối kinh
khủng, đã bị người ta lấy nó làm chiêu bài che đậy những sự xấu xa”.
Hành trình sáng tạo
cũng chính là hành trình trải nghiệm bản thân, khám phá kiếm tìm thế giới xung
quanh. Từ những suy tư, đau đáu, từ những chiêm nghiệm về thân phận con người
trong chiến tranh cũng như trong hòa bình đến những day dứt về dân tộc về niềm
tin... khiến cho tác phẩm chân thực và gần với đời sống.
Thay lời kết, theo ý
nguyện của tác giả, tôi xin được giới thiệu ở đây một bài thơ. Nó được viết,
đầu tiên ở Quân trường 874, Long Giao, vào tháng 06/1984, và được Nguyễn Thành
Nhân sửa lại vào cuối tháng 12/1984, khi anh và đồng đội đang ém quân ở một
cánh rừng cạnh căn cứ Ampil, Tổng hành dinh của Sonsan giáp biên giới Thái Lan.
Tên của bài thơ này cũng là tên của tác phẩm. Và theo tác giả, anh đã viết cuốn
tiểu thuyết là từ những cảm hứng và ý tưởng của bài thơ này.
MÙA XA NHÀ
Thành phố bây giờ chỉ còn là nỗi nhớ
Những hàng me thay lá
đã bao mùa
Lá me bay tôi không
còn thấy nữa
Tháng ngày này năm xưa
trôi trôi xa
Mưa thành phố và con
đường ngập lá
Những buổi chiều tôi
đạp xe đi qua
Trong cơn mưa này lòng
xôn xao nhớ
Đến bao giờ? Cho đến
bao giờ?
Ngày xưa chợt đến như
mơ
Những chiều mưa nhỏ
làm thơ ngậm ngùi
Khói vàng lên những
ngón tay
Bâng khuâng vì dáng em
gầy mong manh
Còn bây giờ là rừng
Chỉ thấy cỏ tranh bốn
bề vây phủ
Những dãy đồi xa càng
thêm gợi nhớ
Mưa sáng mưa chiều
buồn dâng buồn dâng…
Thành phố quê nhà là
một nỗi mong
Đứa con xa nhà ngày
đêm trăn trở
Biết khi nào đất nước
mình im súng nổ
Chỉ có mùa xuân tiếng
pháo đì đùng?
Má ơi, chắc má nhớ
thương
Đứa con bướng bỉnh vẫn
làm má lo
Tháng năm qua, tháng
năm qua
Rồi con cũng sẽ về
nhà, má ơi!
Thương đàn em dại của
tôi
Nhà mình nghèo khó
không người lo toan
Tháng Giêng cúc nở hoa
vàng
Anh về ươm lại một
giàn mướp xanh
Cho câu chuyện cổ
vuông tròn
Cho người phúc hậu gặp
lành gặp may…
Rừng xa hiu hắt nắng
gầy
Bao nhiêu là nhớ đọng
đầy trong tôi.
Ampil, cuối tháng
12/1984
/ Mời đọc tiếp / 20.
Sách Con ắm Rút Ruột
Nhà Tơ” – Nguyễn Văn Hòa
VANDANBNN gt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét