Ngày nay rất nhiều
người coi tiền tài là thước đo chính của sự giàu sang, hạnh phúc. Không ít
người cho rằng để sống khoái hoạt, sung túc thì cần phải có của cải dồi dào,
điều kiện vật chất đầy đủ. Nhưng cổ nhân vì sao có thể sống an bần mà vẫn vui
vẻ khoái hoạt, thỏa mãn, không so đo với người, không oán trách với đời?
Nhan Hồi là học trò
của Khổng Tử, nổi danh là người đức hạnh. Khổng Tử thường khen ngợi Nhan Hồi:
“Một đan cơm, một bầu nước, ở gian nhà nhỏ đơn sơ, người khác đều không chịu
được cảnh khốn cùng kham khổ ấy vậy mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi hứng thú học
tập. Thật cao thượng biết bao!” Từ đời Nhan Hồi, dòng tộc Nhan Thị kéo dài suốt
700 năm mà không suy, hưng thịnh tới thời Nam Bắc Triều Tùy Đường.
Nhan Hồi được xem là
hình mẫu về cách sống thanh bần đạo hạnh, nghèo khổ mà vẫn chuyên tâm học tập.
Từ đời nhà Hán, Nhan Hồi được xếp là người đứng đầu trong 72 học trò xuất sắc
của Khổng Tử, cũng là người đứng đầu trong “Khổng miếu tứ phối” (4 môn sinh của
Khổng Tử được tế tự là Nhan Hồi, Tăng Sâm, Khổng Cấp, Mạnh Kha).
Nhan Hồi đi theo Khổng
Tử chu du các nước gặp rất nhiều khổ nạn. Khi gặp nạn ở đất Khuông, Thái, Trần,
học trò Tử Lộ và những học trò khác của Khổng Tử đối với lời thày dạy đều sinh
tâm hoài nghi, riêng Nhan Hồi không hề thay đổi. Thậm chí, Nhan Hồi còn liễu
giải đạo của Khổng Tử: “Lý tưởng của thầy rất cao, học vấn rất sâu, cho nên mới
không được người bình thường lý giải và áp dụng. Đây đúng là nỗi nhục của bọn
họ”. Khổng Tử nghe xong lời này của Nhan Hồi, trong lòng rất cao hứng.
Một học trò khác của
Khổng Tử là Tăng Sâm, cũng là học trò xuất sắc của ông. Tăng Sâm duy trì ban
ngày làm ruộng, ban đêm miệt mài học tập đến khuya, cuộc sống của ông có thể
nói là vô cùng khốn khó. Nhưng điều đó không làm lung lay ý chí của ông. Vua
nước Lỗ sau khi biết phẩm hạnh của Tăng Sâm thì vô cùng quan tâm và đồng cảm,
quyết định tặng cho Tăng Sâm thực ấp. Nhưng Tăng Sâm kiên quyết từ chối, không
nhận, vẫn giữ lối sống bần cùng như trước mà không oán không hận.
Đời Tống, Chu Đôn Di
làm quan mấy chục năm thanh liêm, chính trực, không màng danh lợi, ông coi nhẹ
địa vị và vàng bạc phú quý. Chu Đôn Di noi gương Khổng Tử và Nhan Hồi, thi hành
nhân nghĩa. Lúc tuổi cao, ông từ quan về quê sống và dạy học. Sau này ông viết
tác phẩm “Ái liên thuyết” lưu danh thiên cổ.
Trong đó “Ái liên
thuyết” có ghi: “Tôi chỉ yêu hoa sen mọc lên từ bùn lầy mà không vấy bẩn, tắm
gội trong sóng nước mà không có vẻ lả lơi, trong rỗng ngoài thẳng, không bò
lan, không đâm cành”, đây là tượng trưng cho tính chính trực, không tùy tiện
của người quân tử. “Mùi hương càng xa càng thanh khiết, dáng mọc lên dong dỏng
cao”, đây là tượng trưng cho sức mạnh cảm hóa của người quân tử. “Chỉ có thể từ
xa ngắm nhìn chứ không thể đến gần mà nâng niu sờ mó”, đây là tượng trưng cho
khí tiết, dáng vẻ đoan trang của người quân tử, người khác kính trọng mà không
dám xem thường.
Trong “Luận Ngữ. Vệ
Linh Công”, Khổng Tử viết: “Điều mà người quân tử mưu cầu là đạo đức chứ không
phải là kế sinh nhai. Người cày ruộng cũng khó tránh những lúc đói kém. Kẻ học
giả cũng có thể hưởng được bổng lộc. Vì thế người quân tử hết lòng lo thiên hạ
không hành đạo nghĩa, mà không lo sự nghèo khốn của cá nhân.”
Trong “Luận Ngữ. Thuật
nhi”, Khổng Tử còn viết: “Nếu phù hợp với chính đạo thì ăn gạo xấu, uống nước
lã, co cánh tay mà gối đầu cũng là vui mừng. Làm điều bất nghĩa mà được giàu
sang thì ta coi như phù vân.”
Cổ nhân có thể sống an
bần, nghèo khó mà vẫn khoái hoạt vui vẻ chính là vì cổ nhân hiểu rõ mục đích
cuộc đời. Tâm họ luôn truy tầm đạo, hướng đến đạo, mà không bị vướng bận vào sự
giàu nghèo. Điều họ theo đuổi chính là làm phong phú nội tâm của mình cuối cùng
đạt đến cảnh giới “thiên nhân hợp nhất”. Đây cũng chính là phẩm đức cao thượng
“sống an bần lạc đạo” của cổ nhân.
“Sống an bần lạc đạo”
là cách nói có xuất xứ từ cuốn “Hậu Hán Thư”, ý nói về người lấy đắc đạo làm
vui, không vì nghèo khổ mà buồn phiền, lo âu. Đây vừa là phẩm cách cao thượng
cũng là đạo xử thế, đạo làm người của cổ nhân.
Không chỉ những người
quân tử, kẻ sĩ của Nho gia mới chọn lựa cách sống “an bần lạc đạo”, vui với
việc truyền dạy đạo lý cho thế nhân, mà những người tu Đạo, tu Phật thời xưa
cũng sống an bần lạc đạo. Những người tu đạo thời cổ đại đều đến núi sâu rừng
già, sống trong đạo miếu mà tu hành. Cuộc sống của họ trên cơ bản đều là túng
thiếu, nghèo khổ.
Những người tu hành
thời xưa cũng tự xưng là bần tăng (tăng nhân nghèo), đi xin cơm hóa duyên.
Những đạo sĩ cũng xưng là bần đạo dạo chơi tứ phương. Họ tuy nghèo nhưng chính
là những cao nhân đắc đạo, có tâm tu luyện vững chắc như bàn thạch. Họ lấy việc
học đạo, ngộ đạo, đắc đạo là mục đích sống, là niềm vui sướng lớn nhất trong
cuộc đời mình. Vì thế, họ không bị hoàn cảnh phú quý hay bần cùng nơi thế gian
làm cho tâm bị xao động, phiền nhiễu, một mực kiên định đi đến tận cùng để hoàn
thành sự lựa chọn của mình.
VANDANBNN st tu thân/
gt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét