NHIỀU TÁC GIẢ
Chủ biên: Nguyễn Nguyên Bảy
Văn truyện TRỊNH BỬU HOÀI
Chủ biên: Nguyễn Nguyên Bảy
Văn truyện TRỊNH BỬU HOÀI
NGƯỜI
HÀNG XÓM LẠ LÙNG
Nghe tin ông Năm qua đời, tôi thu xếp công
việc về quê đưa đám tang ông. Ông Năm với tôi không bà con họ hàng, nhưng là
người hàng xóm mà tôi kính trọng.
Nhà ông Năm cách nhà tôi ba căn.
Tuổi của ông ở khoảng giữa tuổi của ông nội và cha tôi. Thuở nhỏ, hình ảnh ông
Năm là ấn tượng không tốt đối với tôi. Ông nghiêm nghị, khó tánh, sống cô lập
trong ngôi nhà giữa vườn cây ăn trái, có hàng gào kẽm gai cao kín. Không bao
giờ ông ngồi quán hay đến hàng xóm trà đàm với bạn đồng niên. Kể cả đám tiệc,
chẳng ai thấy ông đến dự, chỉ cử vợ con đi thay. Người ta nói ông sống ích kỷ,
không hòa đồng.
Tóc búi cao, hàm râu rậm rạp,
thân hình ông lực lưỡng, dáng vẻ phương phi. Miếng vườn cây trái đối với ông là
của quý, vì nó gắn liền với sự sống của ông. Kẻ trộm vào vườn ông bắt được liền
trói vào gốc cây, không cần tới chính quyền phân xử. Ông đi tới đi lui
giáo-dục-luân-lý. Người hiếu kỳ bu xem đông nghịt. Nói đã miệng ông mở trói thả
đi.
Ông Năm làm nhiều chuyện có thể
gọi là phi thường đối với cái xóm nhỏ của tôi. Một hàng dừa cao nghệu, mấy gốc
xoài to như cổ thụ bị giải tỏa lề đường, nếu là người khác đã chặt bỏ, còn ông,
hì hục bứng dời vào trong sân nhà. Kẻ qua người lại đều cho rằng ông làm chuyện
điên rồ, nhưng một thời gian sau, ông cũng dời xong, cây trở lại xanh tốt! Điều
đáng nể là ông không hề mướn hay mượn ai phụ tiếp, chỉ một mình đào bới, dùng
thế bắn đòn bẩy di chuyển cây sang chỗ mới, thỉnh thoảng có sự tiếp giúp của
mấy đứa con, mà lại toàn là con gái!
Vợ ông lắc đầu, nhưng không
khuyên can được. Điều gì ông muốn là ông làm. Ông xây một ngôi nhà đúc khá
rộng, nóc bằng, sàn bê-tông, nhưng không mướn thợ. Tự ông làm tất. Mỗi ngày làm
một ít. Có người trong họ đến xin làm giúp, ông đuổi về. Hàng xóm xì xào, có
người nói mỉa, căn nhà mười năm chưa xong. Ông tỉnh bơ. Thực tế trả lời họ,
mười hai năm mới xong. Nhưng ông vẫn hoàn thành. Thiên hạ bái phục.
Lớn lên, tôi mới để ý nhận ra ở
ông những tính lạ. Đường xá, cầu cống trong xóm bị hư hỏng, ông vác đồ nghề ra
sửa sang. Cũng một mình, chẳng rủ rê ai!
Không bao giờ ông cho ai mượn một
món gì, và cũng chẳng khi nào ông mượn vật gì của ai. Tự sắm tự xài. Người ta
nói ông lập dị.
Do có sức lực và khéo tay, ông làm
thêm nghề phụ là hàn vá nồi chảo, vè xe, cắt dây sên, lòi tói, uốn dây sắt… Ông
làm rất khéo, tất nhiên khách hàng phải trả tiền sòng phẳng.
Một lần tôi đến nhờ ông vá cái vè
xe Honda bị mụt lủng. Người khách trước tôi là chú Ba Xuổng, chuyên nghề đào chuột
(nên thành danh Ba Xuổng), đang ngồi chờ ông Năm cắt lại cái lưỡi xuổng đã mẻ.
Xong, chú Ba trả tiền, ông Năm không nhận. Tôi ngạc nhiên vì tính ông xưa nay
sòng phẳng, sao có trường hợp ngoại lệ, bèn hỏi:
- Sao ông Năm không lấy tiền?
- Thằng đó quá nghèo, làm giùm
cho nó.
Ông hì hục cưa cắt, khoan lỗ, tán
ốc… Mồ hôi nhễ nhại. Cả giờ sau mới xong cái vè cho tôi. Ông cũng khoát tay
không nhận tiền. Thấy tôi ngạc nhiên, ông nói:
- Chú mầy là người tốt, qua không
lấy tiền.
Tôi áy náy, cố kì kèo ông nhận
tiền. Ông nói:
- Qua đã quyết, chú mầy về đi.
- Nhưng… sao ông biết tôi là
người tốt?
Ông cười hề hề:
- Chú mầy có học, nhưng không ích
kỷ. Cả xóm này ai có oan ức đều nhờ chú mầy giúp đỡ làm đơn, chỉ đường đi khiếu
nại. Không phải là người tốt sao?
Tôi cám ơn rồi ra về, lòng băn
khoăn. Quả thật mình có làm đơn giúp bà con lối xóm, nhưng chưa bao giờ giúp
cho ông Năm. Tôi chợt hiểu, mình vì lối xóm, ông Năm vì mình. Thế mà lối xóm ai
cũng bảo ông ích kỷ?
Từ đó, tôi có cái nhìn khác về
ông. Có lần thấy ông vui vẻ, tôi lân la gợi chuyện, tìm hiểu xem nguyên nhân
nào tạo ra cá tính khác người của ông. Ông không theo đạo Lão, nhưng lại sống
như người ẩn cư. Chứng kiến những việc ông làm, tôi biết ông có tính thiện,
giúp người nghèo khó, lo chuyện xã hội, nhưng không khoe khoang nên hàng xóm ít
ai hiểu. Họ chỉ biết ông là người khô khan, bỏn xẻn, bởi không có cuộc quyên
góp xây chùa cất miễu nào mà ông tham gia, thậm chí người ăn mày, thoáng thấy
còn lành lặn, ông cũng từ chối.
Tôi bạo dạn hỏi:
- Ông Năm à, càng gần gũi cháu
càng thấy ông dễ mến, nhưng sao ông không cởi mở, tiếp xúc thân mật với mọi
người.
- Qua già rồi, sống ở nhà cho yên
thân.
- Ông không cảm thấy buồn và
không sợ người ta nghĩ sai về mình sao?
- Qua có thú vui của qua. Còn
người ta muốn nghĩ sao cũng được. Chín người mười ý, làm sao vừa lòng hết mọi
người, miễn đừng làm chuyện hổ thẹn với lương tâm là được rồi.
- Ông sống hòa mình với mọi
người, cháu thấy có thiệt thòi gì đâu, nếu không nói là có ích nữa.
- Chú em còn trẻ nên chưa hiểu
hết việc đời. Thời trung niên qua cũng có suy nghĩ như chú em vậy. Nhưng mà…
Đôi mắt ông thoáng buồn. Tôi hỏi:
- Nhưng mà sao?
- Không ai hiểu mình bằng mình
đâu chú em à. Qua biết bản chất mình thật thà, ngay thẳng, thậm chí có lúc lỗ
mãng, khó mà thích nghi với cuộc sống vốn đòi hỏi phải mềm mỏng, tế nhị, có khi
phải lòn cúi, nhẫn nhục. Sự đời nhiều việc phải trái lẫn lộn, tốt xấu chẳng
biết đâu mà phân minh, con người qua vốn không tinh tế nên chẳng thể nhìn sâu
hiểu rộng, cũng không có thủ đoạn để đối phó, nên đã nhiều lần lầm người lầm
chuyện thật đáng tiếc. Qua ví dụ cho em thấy, có người giàu sang, hay làm việc
thiện, mình bái phục họ, sau mới biết họ lừa người này gạt người nọ để có tiền
có của, trích ra một chút làm phước để an tâm lường gạt tiếp. Có người chơi
chung với nhau như tri âm tri kỷ, ai ngờ sau lưng đâm lén nhau chỉ vì danh vì
lợi. Có người luôn gõ mõ tụng kinh, mở miệng ra toàn là lời kinh ý giảng, nhưng
lòng dạ nhỏ hẹp, đụng đến quyền lợi là ăn thua đủ. Có người luôn sống hai mặt,
tốt xấu như trở bàn tay, thậm chí đối với cả người thân. Họ hay lắm, sống như
một phường tuồng mà còn tự hào tự tại. Qua dở người dở tính nên không sánh bằng
ai, thôi thì rút lui để khỏi phiền người hại mình. Qua sống không bao giờ ức
hiếp người khác nên cũng không muốn ai hiếp đáp mình. Khu vườn này là thế giới
của qua, ai xâm phạm vào là không được.
- Ông nói sao nghe bi quan quá!
Ông cười:
- Bi quan hay lạc quan là do cái
lòng của mình. Chú em thấy qua tối ngày chỉ lẩn quẩn trong vườn, nhưng qua đã
làm được nhiều việc hơn một số người khác. Họ đi cùng trời cuối đất, toàn làm
những việc to lớn, nhưng sự thực là phá hại, còn vô ích hơn qua nữa.
Tôi ngồi tư lự. Ông Năm từng trải
hơn tôi tưởng.
Lễ tang ông Năm, tất nhiên là ít
người đến dự, đó là luật có qua có lại của loài ngoài. Đi vào khu vườn, tôi
bỗng sững người khi thấy chú Ba Xuổng đang cặm cụi đào huyệt cho ông Năm. Đó là
cái nghĩa của kẻ nghèo. Còn những ai đi trên con đường của ông đắp, cây cầu ông
sửa sang…
Văn truyện Trịnh Bửu Hoài/ Văn nghệ Bông Tràm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét