14 khúc Đó Đưa về thơ của Nguyễn Nguyên Bảy, viết vào năm
1975, và gần 40 năm sau, mới in thành sách, do NXB Văn Học ấn hành tháng
6/2011.
THỦNG THẲNG VỚI THƠ
Nguyễn Nguyên Bảy, Đò đưa
Khúc 8/ Thơ Là Thơ
Nguyễn Nguyên Bảy, Đò đưa
Khúc 8/ Thơ Là Thơ
8. Thơ Là Thơ
Trong tập viết nhỏ này đã hai lần tôi nhắc đến một luận đề nghe mơ
hồ: Thơ là thơ…Cứ làm như là thiếu nữ phải là con gái vậy. Nhưng
quả thực sự mơ hồ ấy đã trở thành một phổ biến trong hiện tình văn
học. Thơ phải là thơ! Đưa ra luận điểm này, vì hiện đang có nhiều
du nhập vào thơ, làm biến chất thơ, không phải là sự làm hiện đại
nó, làm thời trang nó, mà chuyển hóa nó từ vị này trí khác, từ
hướng này sang phương khác, từ khuôn này sang mẫu khác. Quá trình
biến chất ấy đã xảy ra trên cả hai mặt nội dung và hình thức.
Thời đại ngày nay đòi hỏi ở thơ một
trữ lượng thông tin khổng lồ. Thơ không thể chỉ là một tâm sự heo
hắt, một nỗi buồn chiều, một chia ly, một hẹn hò, mà trong thơ cần –
và nhất định phải có – hơi thở thông tin của hiện tại, của đại
chúng. Qua thơ, người đọc có thể nhìn thấy những hình ảnh, hình
tượng của thời đại, rung động với những ảnh tượng ấy để cảm thông
và chia sẻ cùng tác giả. Nói cách khác, người đọc muốn tìm thấy mình
trong những vần thơ ấy.
Do việc cần có một trữ lượng thông
tin khổng lồ, nên sự du nhập vào thơ gỗ, đá, quặng, rác, bùn, dầu
mỡ…quá ồ ạt, đã khiến người đọc bàng hoàng ngỡ những bài thơ mình
đang đọc không phải là thơ nữa mà là sự lên đồng của điệu vần. Một
nghi ngờ cộm lên và thơ đột ngột mất đi phần đáng kể sự chào đón
nồng nhiệt vốn có.
Rõ ràng đã xảy ra mâu thuẫn: Người
đọc cần loại thơ hàm chứa lượng thông tin khổng lồ, đồng thời lại
báng bổ và lạnh nhạt ngay với chính loại thơ đó. Có phải vì độc giả
khó tính, hay vì độc giả không thể cảm thông được với tâm hồn thi
sĩ? Là người làm thơ, ta chỉ có quyền thỏa mãn nguyện vọng của
người đọc, chứ không có quyền buộc người đọc phải bằng lòng tùy
tiện với ta. Cũng như phê bình một tập thơ, bạn đọc có thể có những
ý kiến về tập thơ và tác giả tập thơ đó, chứ chẳng lẽ lại phê phán
vì sao độc giả không thích thơ của mình.
Lại xảy ra mâu thuẫn, người cầm bút
chạy theo người đọc – đã chạy theo người đọc thì còn tiên tri, còn
hướng dẫn thị hiếu thẩm mĩ cho người đọc làm sao được. Mâu thuẫn
thứ nhất và mâu thuẫn thứ hai thực ra không phải là mâu thuẫn, mà
là sự chưa hiểu biết và cảm thông giữa quan hệ của người viết và
người đọc. Và cũng cần phải nói thẳng, khi độc giả chân chính đã
lạnh nhạt với tác phẩm, thì đấy là tác phẩm tồi, tác giả phải chịu
trách nhiệm về nó. Hay nói cách khác tác phẩm ấy đã chưa đạt đến độ
thơ, và nó chưa phải là thơ…
Đòi hỏi của người đọc về lượng
thông tin khổng lồ, về sự cách tân hình thức, về lối diễn đạt mới,
về phương pháp tu từ mới…là hoàn toàn chính đáng. Và có như vậy thì
thơ của hôm nay mới khác thơ của hôm qua và thời đại thơ này mới
khác thời đại thơ trước. Nhưng nhất thiết với bất kỳ sự du nhập nào
cũng phải chuyển hóa thành thơ chứ không thể bắt thơ chuyển hóa
thành cái khác thơ. Hiện nay sự du nhập vào thơ có chiều hướng biến
thơ thành cái khác thơ.
Có thể nói thơ là tên gọi khác của
yêu. Xuân yêu, Hạ yêu, Thu yêu, Đông yêu, bốn mùa yêu tuy khác nhau
về cảnh về tình về thời tiết, nhưng những khác nhau ấy không thay
đổi bản chất của yêu. Bữa kia, sau khi bật ra ý nghĩ ấy, tôi viết
bài thơ Bốn Mùa. Mời đọc:
/ Nếu em là hạt mưa xuân/ Anh
là chồi biếc uống chầm chậm em/ Nếu em ngọn gió chiều lên / Anh
xin là cánh diều êm lưng trời/ Nếu em trăng thu chơi vơi / Anh nằm
trên cỏ hát cười cùng trăng/ Nếu em đơn chiếc mùa đông/ Anh là nắng
ấm sưởi hồng má em/
Và / Dù em chỉ muốn là em/ Nhưng anh vẫn cứ là anh bốn mùa…/
Dù muốn đưa bất kỳ sắc, màu, hương
vị gì vào trong thơ đều phải qua rung cảm trái tim. Ngoài trái tim
tiếp nhận mọi du nhập đều vô nghĩa.
Hãy thử phân loại một số hình thức thơ hiện nay.
Loại thơ mang tên là trí tuệ, đúng
như tên gọi của nó thơ đã đi ra từ tinh hoa của óc, tính luận lý
trong thơ nhiều, nặng và lạnh.
Loại thơ mang tên là anh hùng ca,
thực ra là loại phản ảnh ca hay diễn ca, hát lên cung bực của những
sự kiện mới, những mẫu người mới, minh họa những đường lối chính
sách mới. Tính thời sự trong thơ cao, loại này lối thơ vào là cửa
óc, lối ra là cửa mắt.
Loại thơ mang tên là tâm trạng,
thường là những dằn vặt cá nhân, những tiếng kêu than, những lời
phiền muộn, nó nhỏ nhặt, vô vi, hay dùng thanh bằng, chuốt từ, ảnh
cũ và nghiêng về câu chữ. Loại này không đăng công khai, thường đọc
truyền tay, và đúng như sự tồn tại của nó, ngoài da non ra nó
không biết sống ở chỗ nào.
Loại thơ mang tên là trữ tình tinh
tế, thực ra là những bài tả cảnh mang tính khách quan vô tư, cửa
vào và cửa ra của loại thơ cùng cửa mắt.
Loại thơ mang tên bàng thống, nói
cách khác là thể thơ không được thực tế xã hội thừa nhận. Loại thơ
này khó đánh giá, vì nó đồng thời có những cây bút hèn hạ, tầm
thường, đồng thời có những cây bút cao thượng, tâm sự cá nhân hòa
chan vào những tâm sự lớn của nhân dân và đất nước.
Trong những loại thơ này, loại nào
cũng cố gắng du nhập những cái mới, những cái nóng bỏng thời đại,
nhưng tất cả đều đang cố gắng hết sức trong việc khắc phục những
nhược điểm cũa mình. Cần có sự kết hợp với nhau đẻ ra một loại mới.
Vì là thơ ta hơi nghèo chất trí tuệ, nếu đưa chất trí tuệ một cách
khô cứng vào thơ thì đó chính là chất xã luận báo. Ngược lại, tràn
trề tâm tình, nhưng thơ không đặt vấn đề gì, không chở theo ý đồ
gì, thì nó vẫn cứ nhẹ bỗng, vẫn cứ vô bổ. Sự kết hợp này hầu như thi
nhân nào cũng biết, nhưng dụng được quả thực khó khăn.
Những loại thơ kể trên, khi mang
những cái mới vào thơ thường là: Với thơ trí tuệ chất triết lý,
chất chính luận, những luận cứ khoa học, triết học đơn thuần, nếu
những du nhập này tiêu hóa thành thơ thì thật tuyệt. Nhưng khi
không tiêu hóa được nó bỗng lạnh lùng và không hề có một giá trị
xúc cảm nào. Với loại anh hùng ca, thường hiện vào thơ tự nhiên như
cái đinh, mẩu gỗ công trường, bài toán vi phân trên bảng, một chân
dung đầy đặn theo công thức khuôn hình con người…Do vậy, tính sao
chép không gây cảm xúc, có khiến người đọc nghi ngờ chính sự thành
thực của mình, và dù mình cứ che đi, độc giả vẫn thấy bàn tay làm
thơ của thi sĩ. Loại thơ mang tên tâm trạng – nó vụn vặt nhỏ nhen,
chẳng những không tham gia gì vào cuộc đấu tranh vì tiến hóa nhân
loại, mà hình dung nó giống như một kẻ lười, nhác, chửi đổng sự chậm
trễ của hạnh phúc. Loại thơ mang tên trữ tình tinh tế, cố gắng kết
hợp những cái nhỏ vào những cái lớn, nhưng nó vẫn mang tính quan
sát nhiều hơn chất cảm xúc, sự ví von nhiều khi khiên cưỡng cứ như
là lá cây hình lưỡi mác đâm được cả máy bay giặc Mỹ và chú bé thả
diều nhất định sau này trở thành phi công. Loại thơ bàng thống
thường mang khối mâu thuẫn bản thân rất lớn, do vậy lối diễn đạt
thường khi đỡ, khi che, rối rắm, khó hiểu, học thức khoe khoang,
triết lý bí hiểm thể hiện đúng những tâm trạng hỗn loạn. Cho nên, với
những cây bút thơ này, khi quá tẻ, khi cực hữu, khiến người đọc
mệt nhọc khi theo dọi những chặng thơ của họ.
Vì đưa nhiều cái không thơ vào thơ
nên thơ thành không thơ. Hiện tượng này đã làm mất lòng tin nơi
người đọc và thơ đã không được chào đón nồng nhiệt nữa.
Mỗi sự chào đón đều quá ngắn và tiếp sau ngay là sự chán nản. Hiện tượng này hiện đang rất phổ biến. Vì sao?
Các nhà thơ đang tìm tòi. Cấp độ
đời sống đang ngày một nâng cao thực sự lôi cuốn thơ và thi nhân
nào cũng muốn tung mình lên, muốn dành chiếm những đỉnh cao thời
đại. Một số người đã thành công, nhưng vinh quang thường ngắn. Còn
đại đa số đều ở tình trạng gạo trương lên chưa kịp chín thành xôi,
đậu, lạc còn sống xít.
Sự đưa một cách thô thiển hiện thực
xã hội vào thơ là do sự vội vã của kiến thức, khi tiếp thu cái mới
chưa kịp tiêu hóa, chưa kịp thai nghén đã đẻ cho nên chỉ thấy lổn
nhổn những kiến thức là kiến thức mà chưa thấy thơ. Sự nhai kiến
thức vụng về đến nỗi trong bất kỳ bài thơ nào cũng đưa vào những kiến thức khoa học, những điển tích Âu Châu, những Kinh
Thánh, những…Họ còn khoe cả tên, hàng chuỗi, tên Tây, làm như thể
hạt sỏi ở Paris đẹp và giá trị gấp muôn lần hạt sỏi ở Pắc Bó. Lại
nữa, những tên hoa lạ, lá lạ, cây lạ, được ào ào vào thơ. Những thuật
ngữ quân sự cũng được thơ hóa. Nạn lạm dụng trí thức đã dẫn đến chỗ
hàng loạt các từ trừu tượng xuất hiện: Độc lập, tự do, trầm tư,
trằn trọc, lặng thầm, nghĩ suy, sâu thẳm…Những từ trừu tượng được
dùng như những cái mốt và lập tức (ngắn đến mức kinh ngạc) chúng
liền bị mòn và sáo, bị xem như là từ cổ. Ấn tượng của người đọc rất
khó chịu với những ngôn từ này. Lạm dụng quá hóa nhàm.
Do sự nhàm kiến thức, khiến người
đọc thấy như thơ có một cái gì xa lạ, rất xa lạ với người đọc, nó
không còn là người bạn thâm tình, là nơi chia sớt những buồn vui.
Người đọc đặt câu hỏi: Chẳng lẽ thơ bây giờ khác rồi chăng, hay mình thờ ơ, ngu lạnh không biết thưởng thức thơ?
Với người đọc cả hai câu hỏi đều vô
nghĩa, vì thơ khác với suy nghĩ của họ thì họ còn cần gì thơ nữa,
mà nếu họ thực sự không biết thưởng thức thơ (vì thơ không trở
thành một nhu cầu tinh thần của họ) thì họ thưởng thức cái khác.
Thơ phải đến với người đọc như một tình yêu, khi đã trở thành tình
yêu thì chính người đọc sẽ tự tìm tình…
Không biết bao nhiêu lần tôi tự nói
với mình: Thơ phải là thơ. Và để thực sự giải quyết được điều đó,
tôi đã làm tất cả, không tiếc sức mình, nhưng sự bất lực vẫn luôn
luôn đe dọa tôi. Khi suy nghĩ bao giờ mình cũng tỉnh táo, nhưng khi
bắt tay vào thực hiện, thì việc làm thường ít khi hay ho như ý
nghĩ. Thất bại liên tiếp, kéo dài, tôi vẫn không nản, tôi vẫn dành
cho mình một tình yêu chung thủy với thơ và cố gằng rèn luyện cho
mình có được một tư duy thơ, tất cả những suy nghĩ của mình đều biến
thành thơ, thơ là tiếng nói của trái tim mình, buồn, vui, mừng,
giận cũng từ nơi ấy vọng ra. Quả thực việc rèn luyện này chỉ mang
lại những thành công nhỏ, còn phải cố gắng mức phi thường mới có
thể đạt tới cái bắt đầu của sự đạt tới, còn cái đích thì mãi mãi là
ước mơ. Tôi lắng nghe nhịp đập trái tim mình từ mọi phía khác nhau
của cuộc đời, sự chỉ huy không phải là bộ óc, mà là trái tim, cho
nên những phấn khích nội dung nơi trái tim liền tức khắc thành thơ,
những vần thơ ấy nhiều khi mâu thuẫn với chính tư duy của mình. Vì
sao không có sự thống nhất giữa trái tim và khối óc mà tôi vẫn làm?
Việc hôm nay chớ để ngày mai, rung cảm trái tim có lập lại bao
giờ. Có điều, mình có trách nhiệm với những dòng viết của mình, lúc
nào nó nên ra đời và nó có nên ra đời hay không là trách nhiệm của
mình. Thơ là thơ. Bởi lẽ thơ không thể là nhạc, là họa, càng không
thể là triết học, là toán học, càng không thể là lúa, là ngô, cho
nên không thể lạm dụng bất cứ chất liệu gì thay đổi nó.
Nhìn vào những lao động của mình,
tự nhận rằng: Tôi đã chưa thực hiện được câu nói của mình: Thơ là
thơ. Vẫn còn lộ rất rõ ý đồ người viết. Khi thì bộc lộ vụng về
những chính kiển chính trị, khi thì bộc lộ ngây thơ những suy nghĩ
cá nhân chủ quan, khi thì nói một cách gượng ép những mối tình…Cho
nên thơ vẫn chưa phải là thơ. Có một số bài tôi viết thành công,
con số ấy không nhiều, thành công ấy là do trái tim và khối óc tôi
đã cùng chảy ra nơi đầu bút một dòng thơ.
Cần thiết phải có một tư duy không
mệt mỏi, một thái độ lao động nghiêm ngặt, chuyên cần. Tìm đủ mọi
cách rèn luyện cho bằng được dòng tư duy thơ, chuyển hóa tất cả cái
gì mắt gặp và khi tay cầm bút thì ghi lấy những rung cảm trái tim.
Phương pháp ấy đã khiến cho mở rộng rất nhiều trong cách biểu đạt
và thường là những bất ngờ mới lớn làm sao, trước khi cầm bút, ý
nghĩ về bài thơ còn chưa chín, thế mà cầm đến bút, cứ thế viết, và
thực sung sướng, bài thơ đã đi xa hơn trí tưởng tượng rất nhiều.
Khi đã có được phong cách tư duy thơ thì việc phát hiện, tìm kiếm
không còn là vấn đề khó, và mọi bế tắc đều được khai thông.
Có một tư duy vững chắc thì việc sử
dụng hình thức thơ rất hiếm. Chính nội dung của vấn đề đòi hỏi
hình thức, và dưới ngòi bút hình thức tự hiện ra, chứ không nhất
thiết phải định trước cho nó. Cứ y như cô gái khi đã thuộc người
yêu mến, chỉ nhìn người đan áo, mà tấm áo vẫn vừa khít thân tình.
/ Nếu em là hạt mưa xuân/ Anh
là chồi biếc uống chầm chậm em/ Nếu em ngọn gió chiều lên / Anh
xin là cánh diều êm lưng trời/ Nếu em trăng thu chơi vơi / Anh nằm
trên cỏ hát cười cùng trăng/ Nếu em đơn chiếc mùa đông/ Anh là nắng
ấm sưởi hồng má em/
Điều cuối cùng cần phải nói: Muốn
cho thơ là thơ thì chính mình đừng bao giờ gán ép cho nó những gì
không phải của nó. Tư tưởng đẻ ra thơ chứ không phải dùng thơ vá
bọc tư tưởng. Nếu sự ca ngợi là thành thực đối với mình thì tự bản
thân việc ấy đã thành thơ, chứ không phải cố sắp xếp thơ cho một ca
ngợi gượng gạo. Vấn đề này vô cùng tế nhị, đừng bao giờ quên.
Khi thơ đã thực sự là thơ thì không
cần phải chia loại nào là thơ tư tưởng, loại nào là anh hùng ca,
loại nào là tâm trạng…Người đọc cần thưởng thức bài thơ hay và
người đọc tự phán xét mọi điều. Không còn nghi ngờ gì nữa, khi thơ
đã thực sự là thơ thì bạn đọc lại mở rộng lòng chào đón, mong đợi,
hồi hộp như một hẹn hò bất tuyệt. Và khi ấy vinh quang đã thực sự
thuộc về người nghệ sĩ, vinh quang không gì so sánh được, vinh
quang của bất tử ngợi ca…
Và / Dù em chỉ muốn là em/ Nhưng anh vẫn cứ là anh bốn mùa…/
Sách Thủng Thẳng Với Thơ/ Chương 8/
Mời đọc tiếp chương 9
Và / Dù em chỉ muốn là em/ Nhưng anh vẫn cứ là anh bốn mùa…/
Sách Thủng Thẳng Với Thơ/ Chương 8/
Mời đọc tiếp chương 9
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét