QUẦN HÙNG CHÉM GIÓ
TÔI, 15 NHỊP
Văn đò đưa
1. Hoàng Như Mai / 2. Tùng Bách/ 3. Hạt Cát/ 4. Phùng Thành Chủng/ 5. Đinh Ngọc Diệp/ 6. Trần Vân Hạc/ 7. Hoàng Việt Hằng/ 8. Nguyễn Văn Hòa/ 9. Hoàng Xuân Họa/ 10. Tô Hoàng/ 11. Nguyễn Minh Khiêm/ 12 Nguyễn Mộng Nhưng/ 13. Hồ Bá Thâm/ 14. Minh Thi / 15. Nguyễn Anh Tuấn/
15.1. N h à v ă n MAI AN N G U Y Ễ N A N H T U Ấ N
Văn đò đưa
1. Hoàng Như Mai / 2. Tùng Bách/ 3. Hạt Cát/ 4. Phùng Thành Chủng/ 5. Đinh Ngọc Diệp/ 6. Trần Vân Hạc/ 7. Hoàng Việt Hằng/ 8. Nguyễn Văn Hòa/ 9. Hoàng Xuân Họa/ 10. Tô Hoàng/ 11. Nguyễn Minh Khiêm/ 12 Nguyễn Mộng Nhưng/ 13. Hồ Bá Thâm/ 14. Minh Thi / 15. Nguyễn Anh Tuấn/
15.1. N h à v ă n MAI AN N G U Y Ễ N A N H T U Ấ N
THỬ MỞ MỘT CÁNH CỬA VÀO THẾ GIỚI THƠ
NGUYỄN NGUYÊN BẢY
Trong một bài thơ, NNB hé lộ cho người đọc thơ biết lai lịch đời anh cùng xuất xứ những vần thơ đầu tiên của anh:/ Nơi ấy, các cô gái đều là tiên nữ/ Áo quần mớ bảy, mớ ba/ Yêu nhau bắc cầu giải yếm../ Nơi ấy các bà tiên dạy tôi biết khóc/ Các bà tiên dạy tôi biết cười/ ..Nơi ấy các bà tiên cho tôi giấy bút/ Vẽ lên trời hình rồng thăng/ ..Nơi ấy al2 Kinh Thành Cổ Tích/ Nơi ấy là đời tôi..
Nhưng,
những dòng tự bạch bằng thơ đầy thi vị lẫn trần trụi văn xuôi trên chỉ giúp ta
có thêm mối đồng cảm ban đầu khi đọc thơ NNB, chứ tuyệt nhiên không giúp ta mở
thêm một cánh cửa để dễ dàng bước vào thế giới thơ anh! ( Xin được dùng lại
khái niệm ”Thế giới thơ” mà GS Hoàng Như Mai đã viết về thơ NNB).
Một,
Ta có cảm tưởng, thơ NNB giống như một cuốn kinh đồ sộ tập hợp biết bao suy tưởng cảm nhận của người thơ về đời sống, về cội nguồn của đời sống và của thi ca… Song cuốn kinh ấy lại tựa ma trận của lòng người mà bản thân người làm thơ cũng phải thấy ngợp, đôi lúc có cảm giác chết chìm, có điều đã luôn phải vùng quẫy để thoát ra khỏi cơn lũ ngôn từ và ấn tượng để quan sát, để chiêm nghiệm; và trong khi quan sát chiêm nghiệm đời sống thì quan sát chiêm nghiệm ngay chính những ấn tượng, những kinh nghiệm sống cùng quan niệm xử thế của mình, để rồi từ đó, “Thơ đã ra đời như những liều thuốc giải độc trí tuệ, vì nếu thơ không được sinh ra hẳn tôi đã mắc chứng điên và bị buộc phải vào nhà thương Thường Tín. Thơ đã ra đời như một thách đố tôi, một tự tôn tôi, một khẳng định tôi, một kiêu hãnh tôi đối nghịch với mời gọi của cơm áo và danh giá…”– như chính tác giả tự bạch. Như vậy đối với NNB, làm thơ chính là một cách ứng xử chủ yếu với đời, một cách bảo vệ phẩm giá đặc biệt, một vũ khí hữu hiệu chống lại sự đểu giả, là một lý do và một phương thức chính để tồn tại…
Nhưng trong khi “tìm cho mình một con đường khác, lầm lũi riêng mình, lầm lũi yêu thơ”, NNB hầu như không bao giờ hoàn toàn hòa nhập vào cảnh ngộ, mà anh thường có góc riêng kín đáo nhìn đời, nhìn chính thân thế và tâm trạng của mình để phát hiện ra các thi tứ và “tụng” thành thơ sau khi đã âm thầm vượt qua bao nỗi buồn đau cay đắng. Thơ NNB làm ta liên tưởng tới hệ thống sân khấu của Bertolt Brecht- các diễn viên ra sàn diễn cho người xem biết mình sẽ đóng vai gì trong vở, sẽ trình bày vấn đề gì ( trái ngược với hẳn hệ thống sân khấu của Stanilavski ngay từ đầu đã cuốn người xem vào ảo giác, đồng nhất diễn viên và nhân vật ); điều này chẳng xa lạ với nguyên lý mỹ học của sân khấu dân gian VN (như chèo) mà một trong những cốt lõi của nó là cách điệu hóa và xa lạ hóa – “Ta ra đây có phải xưng danh không nhỉ?”… Sau khi đã tạm thời “hóa thân” vào nàng Kiều và các nhân vật của Truyện Kiều, vào Từ Thức, vào các bà Tiên, vào Sông Cái, vào Kinh thành Cổ tích, vào Thánh Thơ,… nhà thơ dần lùi xa khỏi những nhân vật tưởng tượng để bắt đầu miêu tả, dựng lên thế giới tinh thần của họ – bằng cách đó mở rộng đến gần như là vô hạn biên độ của xúc cảm và tư duy nhận thức cho bản thân sau đó là cho người đọc.
Một,
Ta có cảm tưởng, thơ NNB giống như một cuốn kinh đồ sộ tập hợp biết bao suy tưởng cảm nhận của người thơ về đời sống, về cội nguồn của đời sống và của thi ca… Song cuốn kinh ấy lại tựa ma trận của lòng người mà bản thân người làm thơ cũng phải thấy ngợp, đôi lúc có cảm giác chết chìm, có điều đã luôn phải vùng quẫy để thoát ra khỏi cơn lũ ngôn từ và ấn tượng để quan sát, để chiêm nghiệm; và trong khi quan sát chiêm nghiệm đời sống thì quan sát chiêm nghiệm ngay chính những ấn tượng, những kinh nghiệm sống cùng quan niệm xử thế của mình, để rồi từ đó, “Thơ đã ra đời như những liều thuốc giải độc trí tuệ, vì nếu thơ không được sinh ra hẳn tôi đã mắc chứng điên và bị buộc phải vào nhà thương Thường Tín. Thơ đã ra đời như một thách đố tôi, một tự tôn tôi, một khẳng định tôi, một kiêu hãnh tôi đối nghịch với mời gọi của cơm áo và danh giá…”– như chính tác giả tự bạch. Như vậy đối với NNB, làm thơ chính là một cách ứng xử chủ yếu với đời, một cách bảo vệ phẩm giá đặc biệt, một vũ khí hữu hiệu chống lại sự đểu giả, là một lý do và một phương thức chính để tồn tại…
Nhưng trong khi “tìm cho mình một con đường khác, lầm lũi riêng mình, lầm lũi yêu thơ”, NNB hầu như không bao giờ hoàn toàn hòa nhập vào cảnh ngộ, mà anh thường có góc riêng kín đáo nhìn đời, nhìn chính thân thế và tâm trạng của mình để phát hiện ra các thi tứ và “tụng” thành thơ sau khi đã âm thầm vượt qua bao nỗi buồn đau cay đắng. Thơ NNB làm ta liên tưởng tới hệ thống sân khấu của Bertolt Brecht- các diễn viên ra sàn diễn cho người xem biết mình sẽ đóng vai gì trong vở, sẽ trình bày vấn đề gì ( trái ngược với hẳn hệ thống sân khấu của Stanilavski ngay từ đầu đã cuốn người xem vào ảo giác, đồng nhất diễn viên và nhân vật ); điều này chẳng xa lạ với nguyên lý mỹ học của sân khấu dân gian VN (như chèo) mà một trong những cốt lõi của nó là cách điệu hóa và xa lạ hóa – “Ta ra đây có phải xưng danh không nhỉ?”… Sau khi đã tạm thời “hóa thân” vào nàng Kiều và các nhân vật của Truyện Kiều, vào Từ Thức, vào các bà Tiên, vào Sông Cái, vào Kinh thành Cổ tích, vào Thánh Thơ,… nhà thơ dần lùi xa khỏi những nhân vật tưởng tượng để bắt đầu miêu tả, dựng lên thế giới tinh thần của họ – bằng cách đó mở rộng đến gần như là vô hạn biên độ của xúc cảm và tư duy nhận thức cho bản thân sau đó là cho người đọc.
Sau
khi đã “khách quan hóa” nhân vật trong tưởng tượng, NNB làm công việc khảo sát,
đánh giá về thân phận, phẩm cách… của nhân vật đó và đồng thời cũng tự bộc lộ
thân phận cùng phẩm cách của chính người thơ. Thường là, từ một nguyên cớ, một
biểu tượng giàu sức thuyết phục hay đã từng quen thuộc trong đời sống lịch sử-
văn hóa dân tộc, sau khi đã làm giàu có thêm cho biểu tượng bằng nội lực văn
hóa thẳm sâu và thăng hoa nó bằng xúc cảm thơ tràn trề, anh quay trở lại đào
sâu mãi vào chính nội tâm đang ngổn ngang ( thậm chí có thể còn đang hoang mang
nữa) của mình như đã tìm được chỗ dựa, đã tìm được vỉa mạch, và chính tại những
chỗ này, khi “Anh bật khóc thành tiếng/ Nước mắt tràn đê” , thơ anh
thường lóe sáng một cách thực bất ngờ, khiến người đọc rung động ngây ngất… NNB
thường đem cả trải nghiệm đời mình làm chỗ dựa, làm sự tham chiếu cho từng câu
thơ một! Và phải chăng điều này cũng đã góp phần quan trọng khiến thơ NNB trở
nên vô cùng phong phú- phong phú đến rậm rịt làm người đọc như lạc vào mê hồn
trận của chữ nghĩa phập phồng cảm xúc của tác giả nhưng vẫn được tác giả kéo
riêng ra một chỗ để suy ngẫm về nhân tình thế thái… ( Tiêu biểu như các bài Từ
Thức bơ vơ, Sông cái mỉm cười, Ô cửa vuông trăng, Âm dương, Gia phả, v.v.)
Nhưng ngay cả khi viết về ( hay viết cho) một đối tượng gần gũi thân yêu nhất, NNB cũng sử dụng biện pháp tạm gọi là “phân thân” này. Trong bài “Hai ngôi sao không lặn bao giờ”, đoạn đầu nhà thơ bày tỏ tình cảm trực tiếp với vợ: “Anh không nhận ra em/ Một năm có là bao xa cách/ Em ủ đầu anh vào ngực/ Anh không thể nào hỏi được/ Sao tiều tụy thế mình ơi?” Nhưng ngay liền đó, nhà thơ tách ra khỏi quan hệ trực tiếp để quan sát người vợ kỹ càng hơn, thông qua biểu tượng là đôi mắt, và đồng thời quan sát miêu tả chính nỗi xúc động của mình- hơn thế, để khái quát về thân phận của người phụ nữ trên “đường đời nhiều cạm bẫy”: “Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt chạm chạp u buồn/ Một nốt ruồi đẫm lệ/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt vẫn như ngày nào/ Đôi mắt ngày nào tôi nói yêu em/ Đôi mắt khép nhận lời/ Chỉ còn đôi mắt của vợ tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày nắng quật/ Đêm ngồi bỏng vú nuôi con/ Vai gánh nỗi thương chồng/ Đi xa đường đời nhiều cạm bẫy/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt đổ xiêu.” Tới đoạn 3, đoạn sau cùng, nhà thơ lại trở về vị trí trong đoạn thơ đầu, trực tiếp tâm tình với vợ ; nhưng ở đây, đôi mắt đã được tách ra thành đối tượng thẩm mỹ riêng biệt đối với cả hai người, và đó chính là một sự “phân thân” cấp số nhân khiến cảm xúc được dồn nén nghẹn ngào suốt từ đầu bài thơ đến cuối cùng chợt vỡ òa: “Anh ôm đôi mắt ấy/ Bỗng òa đôi mắt khóc/ Tình rụa ràn mặt anh/ Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức với anh/ Đi cùng anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ.” Thương cảm nhưng không chìm ngập trong nó mà để đúc rút ra được biểu tượng của Cái Đẹp và Tình Thương! Đây có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách NNB (tạm gọi thế); và nếu tôi có trách nhiệm trong Ban tu thư soạn SGK, tôi sẽ đưa ngay bài này vào chương trình văn học bậc phổ thông trung học!
Nhìn chung, ở thơ NNB, các yếu tố tự sự ( narrative) và trữ tình ( lyric) hòa quyện khó phân biệt – trong tự sự đã thổn thức trữ tình và khi trữ tình lại đậm đặc tự sự – đó là một thứ tự sự giống thể văn kệ của văn học Phật giáo song lại giàu trực cảm. Sự trang trải thi hứng đến ào ạt không ngăn cản NNB thường cô đúc câu của thơ mình vào một hình thức ngắn gọn, mộc mạc như lời nói thường ngày song có sức nặng triết lý như châm ngôn, tục ngữ và gửi gắm được suy tư thâm trầm của một ” thầy phù thủy” chữ nghĩa.( “Có đường bởi có bước chân/ Có ngã ba bởi đời cần tìm nhau” – “Xin đừng hỏi anh vì sao/ Viết hoài chuyện tình hai đứa/ Anh còn gì khác tặng em” – “Em đã trả lại anh cho đời/ Đã trả lại dòng thơ thủ thỉ cho yêu/ Cái chết bỗng trở thành hèn nhát” – v.v. )
Hai,
Ngay từ những bài thơ đầu tiên của mình, NNB dường như đã có xu hướng huyền thoại hóa những hình ảnh, những chi tiết thơ, những quan sát cùng nhiều thi liệu khác đã trở nên quen thuộc thậm chí mòn sáo nhưng khi nhìn qua “Gằm gằm nỗi gì sau đít chai” cộng với một tình thương trĩu nặng thường trực thì “ngựa lá đa sẽ hóa ngựa thần”… Xu hướng tinh thần và dần biến thành quan niệm sáng tác vững bền này khiến người thơ thỏa sức chìm trong “Ký ức ca dao”, trong “lung linh cổ tích đêm mơ” và biết bao biểu tượng của văn hóa dân tộc gần gũi với mỗi người dân Việt từ thở ấu thơ cho đến khi từ giã cõi đời- dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Thơ NNB, từ thời xa lắm cho tới gần đây nhất, hầu như chỗ nào cũng ướt lệ và thầm thì âm hưởng những lời ru nao lòng “rợp từng đàn cò trắng” hay “âm âm lời Chinh phụ lời Kiều” … Nhà thơ đi trên “một con thuyền Trương Chi“ suốt từ thời tráng niên cho tới ngày lên lão mà chưa hề thấy mệt mỏi, chán nản, ngược lại dường như càng đắm say thêm những gì được thấy được nghe trên con thuyền ấy- kể cả tiếng hát cô đơn xa xót của chính mình… Lắng sâu vào cuộc đời dân tộc, đúng hơn là vào hành trình đau khổ của dân tộc- bằng phương tiện khi là lục bát, lục bát biến thể, khi bằng thơ không vần, thơ văn xuôi- nhà thơ bằng cách đó làm giàu có cho tinh thần mình, để trước hết dạy dỗ các con thông qua những “Bài ru trằn trọc” về những lẽ đời nghiêm trang cảm động- và bài học quan trọng nhất là tình thương, lòng trắc ẩn- cái điều đang thiếu trầm trọng trong hệ thống giáo dục của ta! Tôi bỗng nhớ đến Châm ngôn thứ hai trong việc giáo dục học trò ở một tác phẩm lớn của J.J. Rousseau chính là câu thơ Latin của thi hào Virgile: “Tôi biết điều bất hạnh, chính nó dạy tôi cứu giúp những người đau khổ”. (1) NNB bơi lội hít thở trong cái “trường” văn hóa dân tộc đậm đà tình nhân ái của ông cha từ thở thơ ấu, từ buổi “lần đầu tiên thấy mình lòng tôi chiêng trống”, mà đối với anh dù đi suốt cuộc đời “vẫn là mới sáng hôm qua”… Nhưng không phải nhà thơ vay mượn những hình ảnh ấy, vay mượn những biểu tượng và sự thụ cảm dân gian ấy, mà chúng thực sự là máu thịt của anh, nảy sinh từ trong huyết quản và từ tận tế vi tiềm thức, chúng được chứng thực bằng nỗi đau riêng và nỗi đau chung của anh!… Lắng nghe một cách chăm chú chật vật, giao tiếp một cách đau đớn, đối thoại một cách vật vã, để rồi sau đó nhà thơ chỉ làm cái việc là vội vàng run rẩy ghi lại một cách chân thật những gì mà tiềm thức nói, những gì mà chàng Từ Thức tâm sự, những gì mà Thánh Thơ Cao Bá Quát dạy bảo, những gì mà nàng Kiều thổn thức, những gì mà bà Tiên phán truyền, những gì mà người cha trăng trối… Sự thống nhất khá bền vững của hệ thống thi liệu và cách thụ cảm dẫn tới nghệ thuật biểu hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau này, theo tôi là một nét đặc sắc riêng biệt khó trộn lẫn với bất kỳ ai của thơ NNB, lý giải phần nào sức cuốn hút gần như huyền bí của thơ anh ( mà nếu là các nhà phê bình chuyên nghiệp sẽ đưa ra lý luận về thi pháp để soi rọi, phân tích, còn một kẻ tay ngang như tôi thì không dám lạm bàn.)
Ba,
Tạm kết.
Trong một tập sách đối thoại về thơ rất thú vị mới đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng có dẫn câu nói của nhà thơ Wiliam Carlos Wiliams: “Khó mà có thể tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hàng ngày, con người vẫn chết thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong thơ.” (2) “Những điều chỉ tìm thấy trong thơ” đó- dĩ nhiên phải là thơ thứ thiệt- chúng ta có thể tìm thấy trong từng dòng, từng trang thơ NNB mà ở đó anh đã thành thật đến não lòng kể lại: “Thơ tôi đã ra đời trong tiếng gõ cửa dồn gấp, trong những lời kêu thét bệnh hoạn, trong đói nghèo muốn cuốn đời vào hèn hạ, nhưng nó vẫn kiêu hãnh khóc như trẻ sơ sinh, trên cái bàn chí đứng ba chân (một chân đã mọt gãy), với một gía sách, trong căn nhà lá 8 mét vuông, lợp giấy dầu, cạnh chuồng tiêu, ao bèo, bè bạn với côn trùng và muỗi đói…” Và đây nữa: “Những dòng thủng thẳng này được viết ra trong đói nghèo không thể tả bằng ngôn ngữ và trong những khủng hoảng tinh thân triền miên, vô lý. Nhưng lòng vẫn cố không rời phao thơ để nâng xác, cứu hồn… nếu như bạn biết tôi đã phải sống trong hoàn cảnh nào, về thân xác tôi bị đói rét hành hạ, về tình thần tôi bị ruồng bỏ và canh gác sát sao. Tôi đã chép những chán nản ấy, những thất vọng ấy, những cay đắng ấy vào thơ. Và hân hoan thay, thơ trả lại cho tôi những dòng chữ nghĩa như khí cho tôi thở, như lửa cho tôi chế biến thức ăn, như sông suối cho tôi tắm mát. Đó là đức tin phải có, đức tin phải sáng rạng trong tâm hồn…”
Thưa Bạn yêu quý thơ NNB, hãy thử, với một cánh cửa tạm mở như trên mà bắt đầu ( hay thêm một lần nữa) bước vào thế giới thơ NNB, và trước hết hãy đọc nó như đọc một tập kinh cầu nguyện khi ta có Đức tin về Thơ, về Tình thương và Ân nghĩa trong Cõi Đời còn nhiều gian truân và ngang trái này…
Hà Nội, đêm Nguyên tiêu – Tân Mão
Nguyễn Anh Tuấn ( Đạo diễn điện ảnh)
* Thơ Nguyễn Nguyên Bảy, Nxb văn học, HN, 2010
1. “Émile hay là về giáo dục”- Nxb Tri thức, HN, 2008
2. Dẫn theo “Thơ đến từ đâu”, Nxb Lao động, HN, 2009
VANDANBNN
Nhưng ngay cả khi viết về ( hay viết cho) một đối tượng gần gũi thân yêu nhất, NNB cũng sử dụng biện pháp tạm gọi là “phân thân” này. Trong bài “Hai ngôi sao không lặn bao giờ”, đoạn đầu nhà thơ bày tỏ tình cảm trực tiếp với vợ: “Anh không nhận ra em/ Một năm có là bao xa cách/ Em ủ đầu anh vào ngực/ Anh không thể nào hỏi được/ Sao tiều tụy thế mình ơi?” Nhưng ngay liền đó, nhà thơ tách ra khỏi quan hệ trực tiếp để quan sát người vợ kỹ càng hơn, thông qua biểu tượng là đôi mắt, và đồng thời quan sát miêu tả chính nỗi xúc động của mình- hơn thế, để khái quát về thân phận của người phụ nữ trên “đường đời nhiều cạm bẫy”: “Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt chạm chạp u buồn/ Một nốt ruồi đẫm lệ/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt vẫn như ngày nào/ Đôi mắt ngày nào tôi nói yêu em/ Đôi mắt khép nhận lời/ Chỉ còn đôi mắt của vợ tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày nắng quật/ Đêm ngồi bỏng vú nuôi con/ Vai gánh nỗi thương chồng/ Đi xa đường đời nhiều cạm bẫy/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt đổ xiêu.” Tới đoạn 3, đoạn sau cùng, nhà thơ lại trở về vị trí trong đoạn thơ đầu, trực tiếp tâm tình với vợ ; nhưng ở đây, đôi mắt đã được tách ra thành đối tượng thẩm mỹ riêng biệt đối với cả hai người, và đó chính là một sự “phân thân” cấp số nhân khiến cảm xúc được dồn nén nghẹn ngào suốt từ đầu bài thơ đến cuối cùng chợt vỡ òa: “Anh ôm đôi mắt ấy/ Bỗng òa đôi mắt khóc/ Tình rụa ràn mặt anh/ Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức với anh/ Đi cùng anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ.” Thương cảm nhưng không chìm ngập trong nó mà để đúc rút ra được biểu tượng của Cái Đẹp và Tình Thương! Đây có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách NNB (tạm gọi thế); và nếu tôi có trách nhiệm trong Ban tu thư soạn SGK, tôi sẽ đưa ngay bài này vào chương trình văn học bậc phổ thông trung học!
Nhìn chung, ở thơ NNB, các yếu tố tự sự ( narrative) và trữ tình ( lyric) hòa quyện khó phân biệt – trong tự sự đã thổn thức trữ tình và khi trữ tình lại đậm đặc tự sự – đó là một thứ tự sự giống thể văn kệ của văn học Phật giáo song lại giàu trực cảm. Sự trang trải thi hứng đến ào ạt không ngăn cản NNB thường cô đúc câu của thơ mình vào một hình thức ngắn gọn, mộc mạc như lời nói thường ngày song có sức nặng triết lý như châm ngôn, tục ngữ và gửi gắm được suy tư thâm trầm của một ” thầy phù thủy” chữ nghĩa.( “Có đường bởi có bước chân/ Có ngã ba bởi đời cần tìm nhau” – “Xin đừng hỏi anh vì sao/ Viết hoài chuyện tình hai đứa/ Anh còn gì khác tặng em” – “Em đã trả lại anh cho đời/ Đã trả lại dòng thơ thủ thỉ cho yêu/ Cái chết bỗng trở thành hèn nhát” – v.v. )
Hai,
Ngay từ những bài thơ đầu tiên của mình, NNB dường như đã có xu hướng huyền thoại hóa những hình ảnh, những chi tiết thơ, những quan sát cùng nhiều thi liệu khác đã trở nên quen thuộc thậm chí mòn sáo nhưng khi nhìn qua “Gằm gằm nỗi gì sau đít chai” cộng với một tình thương trĩu nặng thường trực thì “ngựa lá đa sẽ hóa ngựa thần”… Xu hướng tinh thần và dần biến thành quan niệm sáng tác vững bền này khiến người thơ thỏa sức chìm trong “Ký ức ca dao”, trong “lung linh cổ tích đêm mơ” và biết bao biểu tượng của văn hóa dân tộc gần gũi với mỗi người dân Việt từ thở ấu thơ cho đến khi từ giã cõi đời- dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Thơ NNB, từ thời xa lắm cho tới gần đây nhất, hầu như chỗ nào cũng ướt lệ và thầm thì âm hưởng những lời ru nao lòng “rợp từng đàn cò trắng” hay “âm âm lời Chinh phụ lời Kiều” … Nhà thơ đi trên “một con thuyền Trương Chi“ suốt từ thời tráng niên cho tới ngày lên lão mà chưa hề thấy mệt mỏi, chán nản, ngược lại dường như càng đắm say thêm những gì được thấy được nghe trên con thuyền ấy- kể cả tiếng hát cô đơn xa xót của chính mình… Lắng sâu vào cuộc đời dân tộc, đúng hơn là vào hành trình đau khổ của dân tộc- bằng phương tiện khi là lục bát, lục bát biến thể, khi bằng thơ không vần, thơ văn xuôi- nhà thơ bằng cách đó làm giàu có cho tinh thần mình, để trước hết dạy dỗ các con thông qua những “Bài ru trằn trọc” về những lẽ đời nghiêm trang cảm động- và bài học quan trọng nhất là tình thương, lòng trắc ẩn- cái điều đang thiếu trầm trọng trong hệ thống giáo dục của ta! Tôi bỗng nhớ đến Châm ngôn thứ hai trong việc giáo dục học trò ở một tác phẩm lớn của J.J. Rousseau chính là câu thơ Latin của thi hào Virgile: “Tôi biết điều bất hạnh, chính nó dạy tôi cứu giúp những người đau khổ”. (1) NNB bơi lội hít thở trong cái “trường” văn hóa dân tộc đậm đà tình nhân ái của ông cha từ thở thơ ấu, từ buổi “lần đầu tiên thấy mình lòng tôi chiêng trống”, mà đối với anh dù đi suốt cuộc đời “vẫn là mới sáng hôm qua”… Nhưng không phải nhà thơ vay mượn những hình ảnh ấy, vay mượn những biểu tượng và sự thụ cảm dân gian ấy, mà chúng thực sự là máu thịt của anh, nảy sinh từ trong huyết quản và từ tận tế vi tiềm thức, chúng được chứng thực bằng nỗi đau riêng và nỗi đau chung của anh!… Lắng nghe một cách chăm chú chật vật, giao tiếp một cách đau đớn, đối thoại một cách vật vã, để rồi sau đó nhà thơ chỉ làm cái việc là vội vàng run rẩy ghi lại một cách chân thật những gì mà tiềm thức nói, những gì mà chàng Từ Thức tâm sự, những gì mà Thánh Thơ Cao Bá Quát dạy bảo, những gì mà nàng Kiều thổn thức, những gì mà bà Tiên phán truyền, những gì mà người cha trăng trối… Sự thống nhất khá bền vững của hệ thống thi liệu và cách thụ cảm dẫn tới nghệ thuật biểu hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau này, theo tôi là một nét đặc sắc riêng biệt khó trộn lẫn với bất kỳ ai của thơ NNB, lý giải phần nào sức cuốn hút gần như huyền bí của thơ anh ( mà nếu là các nhà phê bình chuyên nghiệp sẽ đưa ra lý luận về thi pháp để soi rọi, phân tích, còn một kẻ tay ngang như tôi thì không dám lạm bàn.)
Ba,
Tạm kết.
Trong một tập sách đối thoại về thơ rất thú vị mới đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng có dẫn câu nói của nhà thơ Wiliam Carlos Wiliams: “Khó mà có thể tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hàng ngày, con người vẫn chết thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong thơ.” (2) “Những điều chỉ tìm thấy trong thơ” đó- dĩ nhiên phải là thơ thứ thiệt- chúng ta có thể tìm thấy trong từng dòng, từng trang thơ NNB mà ở đó anh đã thành thật đến não lòng kể lại: “Thơ tôi đã ra đời trong tiếng gõ cửa dồn gấp, trong những lời kêu thét bệnh hoạn, trong đói nghèo muốn cuốn đời vào hèn hạ, nhưng nó vẫn kiêu hãnh khóc như trẻ sơ sinh, trên cái bàn chí đứng ba chân (một chân đã mọt gãy), với một gía sách, trong căn nhà lá 8 mét vuông, lợp giấy dầu, cạnh chuồng tiêu, ao bèo, bè bạn với côn trùng và muỗi đói…” Và đây nữa: “Những dòng thủng thẳng này được viết ra trong đói nghèo không thể tả bằng ngôn ngữ và trong những khủng hoảng tinh thân triền miên, vô lý. Nhưng lòng vẫn cố không rời phao thơ để nâng xác, cứu hồn… nếu như bạn biết tôi đã phải sống trong hoàn cảnh nào, về thân xác tôi bị đói rét hành hạ, về tình thần tôi bị ruồng bỏ và canh gác sát sao. Tôi đã chép những chán nản ấy, những thất vọng ấy, những cay đắng ấy vào thơ. Và hân hoan thay, thơ trả lại cho tôi những dòng chữ nghĩa như khí cho tôi thở, như lửa cho tôi chế biến thức ăn, như sông suối cho tôi tắm mát. Đó là đức tin phải có, đức tin phải sáng rạng trong tâm hồn…”
Thưa Bạn yêu quý thơ NNB, hãy thử, với một cánh cửa tạm mở như trên mà bắt đầu ( hay thêm một lần nữa) bước vào thế giới thơ NNB, và trước hết hãy đọc nó như đọc một tập kinh cầu nguyện khi ta có Đức tin về Thơ, về Tình thương và Ân nghĩa trong Cõi Đời còn nhiều gian truân và ngang trái này…
Hà Nội, đêm Nguyên tiêu – Tân Mão
Nguyễn Anh Tuấn ( Đạo diễn điện ảnh)
* Thơ Nguyễn Nguyên Bảy, Nxb văn học, HN, 2010
1. “Émile hay là về giáo dục”- Nxb Tri thức, HN, 2008
2. Dẫn theo “Thơ đến từ đâu”, Nxb Lao động, HN, 2009
VANDANBNN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét