Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2017

Đường Văn: (Đọc bộ sách: Thơ Bạn thơ 6, Vườn 5 nhà 2, Chém gió muôn màu 2./ Hết.


SONG BÍCH KỲ NHÂN:
NGỜI SÁNG TUỆ -TÂM!
ĂM ẮP NGHĨA-TÌNH!

(Đọc bộ sách: Thơ Bạn thơ 6, Vườn 5 nhà 2, Chém gió muôn màu 2.
Đồng Chủ biên: Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên; NXB Hội Nhà văn, 2016…)

ĐƯỜNG VĂN

 (Đọc bộ sách: Thơ Bạn thơ 6, Vườn 5 nhà 2, Chém gió muôn màu 2.)
Đoạn 3/ Hết.

Thơ Bạn Thơ 6 (2016)
 dày 300 trang, tinh tuyển thơ hay của 160 tác giả Việt Nam đã qua đời và đương thời (nếu cộng cả 384 tác giả với 384 câu thơ hay ở phần II, thì sẽ là 544 tác giả, một con số “khủng”! Chẳng hạn, nếu so với Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh – Hoài Chân (1941) chọn bình thơ của 78 tác giả); trong đó phần mở đầu, ngoài in lại Lời thưa và Lời mời tham gia Dự án sách Thơ Bạn Thơ của chủ biên, còn có bài Thơ bạn thơ  - Tuyển tập thơ có giá trị đặc biệt của Hòa Phú Yên.
          Phần nội dung chủ yếu gồm:
I. Lục bát  trăm nhà99 tác giả xếp theo  ABC
II. 384 câu thơ hay của 21 tác giả xếp theo ABC
III. Thơ hay của 21 tác giả đã từ trần
IV. Thơ hay của 40 tác giả đương thời
         
          Như vậy, về số lượng tác giả và bài thơ: tập này đã vượt trội hơn cả so với 5 tập Thơ Bạn Thơ trước. Về các phần, mụcCó thêm mục mới: Lục bát trăm nhà.
Bố cục sắp xếp các phần, mục: mạch lạc, chặt chẽ, khoa học. Nhìn chung, đó là một tập hợp tuyển Thơ được kiến tạo rất công phu hoàn toàn hướng tới mục đích nhân văn cao thượngtôn vinh Thơ Hay và Người Yêu ThơHình thức sách rất trang nhã, hiện đại, bìa cứng, minh họa đẹp, khổ sách vuông 20.20, hầu như không để sót lỗi biên tập, in ấn đáng tiếc. Số lượng phát hành lớn (1000 bản), tạm đủ thỏa mãn yêu cầu của bạn đọc yêu thơ trong cả nước.
          Về chất lượng thơ được tuyển chọn trong toàn tập: khá đồng đều. Về cơ bản, nhóm đọc chọn đã tuân thủ đúng các nguyên tắc đã được thống nhất trong toàn nhóm với chủ biên một cách khách quan và thận trọng, nhưng không cứng nhắc và cầu toàn. Đọc cụ thể vào từng phần, mục, chúng ta thấy:

I.              99 tác giả lục bát trăm nhà:

          Đây là ý tưởng mới của chủ biên cùng nhóm tuyển chọn. Một ý tưởng đẹp, hay. Ta gặp lại ở đây những tác giả, tác phẩm từng được chọn in trong các tập Thơ Bạn Thơ trước, được thử thách qua thời gian sàng lọc và trụ vững nhiều thập kỷ và 5 năm lại nay (tính từ TBT1 (2012).
          Chẳng hạn: Tản Đà với Thề non nước, Trần Huyền Trân với Uống Rượu với Tản Đà, Huy Cận với Ngậm ngùi, Bàng Bá Lân: Trăng quê, Bùi Kim Anh: Nhặt trăng…; Bên cạnh nhiều tác giả, tác phẩm mới, chuyên nghiệp và không chuyên, nổi tiếng (nhiều ít): tôi gặp lại những cây lục bát lừng lẫy thi đàn Việt: Đoàn Thị Lam Luyến, Giang Quân, Lý Phương Liên, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phi Tuyết Ba…và nhiều cây bút lục bát mới mẻ, chưa thành danh. Những Trịnh Xuân Trứ, Hồ Phong Tư, Quách Sỹ Hùng, Minh Tuấn, Nguyễn Thị Tính… 
          Bất kể nữ nam, dân tộc, trẻ già… cứ thấy lục bát hay là tuyển! Phong cách nghệ thuật biểu hiện càng khác nhau, càng thú!
          Đã lâu lắm rồi, tôi mới được đọc lại bài thơ Vùng phấn bay của nữ đồng nghiệp Phi Tuyết Ba viết về nghề dạy học chúng tôi. Những hình ảnh thơ có vẻ đã mòn cũ theo thời gian, năm tháng, nhưng đọc lại vẫn thấy dâng mãi lên niềm rưng rưng xúc động thương cho cái nghề trồng người:
          Sông bao nhiêu nước… sông gầy/Cánh đồng gieo chữ… đợi ngày hoa non… Nước trôi về xứ vô cùng/Thương thầy ở lại một vùng phấn bay/… Sông đời bất chợt nông, sâu, /Học thầy, em bắc chiếc cầu chữ Tâm.
          Chỉ tiếc trong tập tuyển, về nghề sư phạm và người giáo viên, chỉ chọn duy nhất bài này?!
          Lại vừa thú vị vừa tiếc, khi lần thứ mấy rồi đọc lại bài Trăng quê của cụ Bàng. Bài thơ đã thọ tới hơn 80 tuổi. Nhưng 2 câu cuối: Hỡi cô tát nước bên đàng/Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?!... thì quả thật kỳ diệu, đã được dân gian hóa thành ca dao từ bao giờ chẳng ai rõ! Và chắc nó sẽ trường thọ muôn đời!  Thú vị, vì người tuyển đã giúp bạn đọc không chỉ biết rõ nguồn gốc xuất xứ, văn cảnh, tác giả cụ thể của câu ca dao Hỡi cô tát nước bên đàng mà còn được đọc những câu trước làm nền cho nó, càng khâm phục tài tuyển chọn, sàng lọc tự phát của trí tuệ dân gian (người vặt lông vịt tài tình (Xuân Diệu). Nhưng tiếc và mong những câu thơ lục bát của các nhà thơ Việt thành danh đã hóa ca dao không ít. Ví dụ: những bài, những câu: Gió đưa cành trúc la đà/Tiễng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương… (Dương Khuê), Tháp Mười đẹp nhứt bông sen/Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ (Bảo Định Giang),  Trên trời mây trắng như bông/Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây (Mây và bông – Ngô Văn Phú). Hoặc gần đây nhất là những câu thơ, bài thơ hay hóm, tài hoa của Nguyễn Bảo Sinh đã được dân gian hóa tự bao giờ: Vợ là cơm nguội của ta/nhưng là phở tái thằng cha láng giềng (Cơm và phở)… Những câu từ những bài như thế, tôi rất mong các nhà sưu tập lưu ý, lần lượt  đưa chúng vào các tập TBT tiếp theo.
          Nhân đây, cũng xin nêu một đề nghị mang tính tham khảo:
          Nói lục bát Việt, trước hết phải nói tới lục bát ca dao. Sang lục bát thơ viết thì đỉnh 1 là cụ Nguyễn Du, với Truyện Kiều bất tử, sau là lục bát (trong song thất) Nguyễn Gia Thiều (Cung oán ngâm), Đoàn Thị Điểm (Chinh phụ ngâm), Nguyễn Khuyến (bản tự dịch Di chúc)… lục bát Nguyễn Bính, Tế Hanh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn… Có một dòng thơ lục bát Việt Nam khi cuộn xiết, khi êm đềm chảy trong lịch sử thơ ca Việt, với những đỉnh cao tuyệt vời và đa dạng, cần được tinh tuyển của mỗi người chỉ 1 bài hoặc 1 đoạn hay nhất với những lời bình phẩm đích đáng để đưa vào các phần LB trăm nhà tiếp nối trong những năm sau.
          Riêng tôi, lần này đọc TBT6, khi đang ngấp nghé chào tuổi thất thập cổ lai chẳng còn hy nữa! (chỉ 1 phường Trèm tôi, mùa xuân Đinh Dậu đã mừng tới 100 cụ vào tuổi này!) nên rất tâm đắc chia sẻ cùng bạn đọc với bài lục bát 70 của Phan Tấn Ni (Tôi chưa được làm quen với tác giả?! Không biết cụ Ni niên kỷ xuân này được bao nhiêu và quê đâu tá?). Yêu sao tình yêu đời của cụ Phan, khi cụ ngẫm về tuổi tác, cuộc sống bằng những hình ảnh thơ trẻ trung, mới mẻ, mạnh mẽ, hóm hỉnh lạ lùng:
          70! Ôi thấm thía gì/ Tóc râu dẫu bạc, hồn thì xanh lơ/ Hồn tôi như lá đôi bờ/Gói yêu thương lại ủ bờ tre xanh…/Vui chân tôi bước qua cầu/Tay bưng khệ nệ cái sầu trong veo/…70 lội suối, leo đèo/Hái chơi vài trái mộng treo nhánh tùng/Đói lòng uống núi ăn rừng/ Nuốt suông vài giọt sương lừng khừng rơi…/Khom lưng cõng hạt bụi trời xanh bay/…Lên non rủ đám vô thường/Về xuôi, lượm trái trăng hường vừa sa/… 70 đâu tháy mình già!... Giật mình ngó lại ban trưa /Mới hay tuổi tác tôi vừa lên ngôi… (tr.68-69, TBT6).
          Chí lý, chí tình vậy chăng hỡi các bạn già 70 và tròm trèm thất thập, như… tôi!?

II.           384 câu thơ  hay của 384 tác giả xếp theo ABC

          Xin mạn phép góp ý đôi điều về bếp núc công việc biên tập nhọc nhằn, khó khăn, phức tạp.:
          Tôi rất băn khoăn trước con số 384!? Vì sao 384 mà không 385? Hoặc 390 hoặc 400 cho tròn? Con số 384, với nhóm tuyển chọn, với chủ biên mang ý nghĩa đặc biệt gì chăng? Có lẽ cũng nên đò đưa, tỏ tường đôi chút với bạn đọc đã yêu thơ lại hay tò mò thì càng thú vị chứ sao?!
          Thơ hay có thể gặp ở những cấp độ khác nhau: câu hay, cặp câu hay (2 câu), khổ hay (3 - 4 câu), đoạn hay (trên 4 câu), bài hay, chùm hay, tập hay v.v… TBT6 tiếp tục chủ trương và trích các câu hay như thế, thiển nghĩ, các nhà biên soạn nên tiêu mục là: 384 cặp câu thơ hay mới chính xác. Bởi lẽ có không cặp câu trong đó chỉ hay 1 câu (1 hoặc 2). Câu còn lại chỉ đóng vai trò câu dẫn hoặc nềnphụ họa hoặc trích cho trọn ý mà thôi. Ca dao cũng thế mà Truyện Kiều cũng vậy. Ví dụ: câu Hỡi cô tát nước bên đàng (làm nền, dẫn ý, bình thường)/ Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?! (Câu hay!); hoặc: Chàng Vương quen mặt ra chào (câu kể, bình thường)/ Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa (hay, nhất là từ “nép”). Nhiều khi câu dưới, câu trên bình thường, chỉ có câu giữa là hay. Ví dụ: Một tiếng chim kêu: sáng cả rừng(Khương Hữu Dụng – Từ đêm 19); Trăng mài mòn guốc võng (Về hỏa tuyến thăm con - Bằng Việt) v.v… Và có lẽ nên chăng, chọn trích mở rộng ở 4 cấp độcâu, cặp câu, khổ, đoạn… trước khi chọn trích lên cấp bài và chùm bài. Như vậy sẽ chuẩn xác, hiệu quả và khoa học hơn.
          Về 384 cặp thơ hay đã được đọc chọn, tôi vui mừng gặp ở đây không ít câu mới lạ, kỳ thú, bất ngờ của những tác giả tôi hoàn toàn chưa được nghe tên. Gặp lại những câu hay đã từng quen từ hồi học phổ thông, đại hoc. Thử ngẫu nhiên nhặt lại:
          Bỏ mùa đông cũ ra phơi/Áo hoa ngoài ngõ cứ cười áo bông (Trần Ai); Gáo dừa mỗi gáo một hơi /Giếng quê, tôi uống suốt đời vẫn trong (Phạm Ánh). Một cặp lục bát Nguyễn Bính quen quá mà đọc lại vẫn ngỡ ngàng: Hồn anh như hoa cỏ may/Một chiều cả gió bám đầy áo em; Mải mê đuổi một con diều/Củ khoai nướng cháy cả chiều thành tro (Đồng Đức Bốn); Hồn chênh vênh, bóng chơi vơi/Đất cong mặt giận, chân trời lảng xa (Vũ Hoàng Chương) Dân 25 triệu, ai người lớn?/Nước 4000 năm, vẫn trẻ con! (Tản Đà)Người về từ cõi ấy/Vợ khóc một đêm, con lạ một ngày (Hoàng Hưng? Hay Phùng Cung (Xem đêm)? Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng(Trần Đăng Khoa); Gió rơi, mẻ tiếng chuông chùa/Vùng vằng khoảnh khắc giao mùa, gãy đôi (Đào Mạnh Long);  Gọi đò, đò đã rời xa/Gọi người khản cổ, hóa ra gọi mình (Nguyễn Ngọc Oánh) Hoa huệ trắng, bức tường cũng trắng/Sao bóng hoa trên tường lại đen (Bế Kiến Quốc); Vấn vương với sợi tơ trời/Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan (Đoàn Thị Tảo); Ai đâu trở lại mùa thu trước/Nhặt hết cho tôi những lá vàng (Chế Lan Viên)…
          Một tự nhận xét riêng, vụt hiện thú vị, chưa kịp lý giải: Mỗi cặp hay một kiểu, một lối khác nhau và hầu hết những cặp câu hay đều là thơ lục bát?!

III. 21 bài thơ hay của 21 tác giả đã từ trần (xếp theo ABC)

          Trong phạm vi hiểu biết hạn hẹp của tôi, với các tập TBT tiếp theo, ở mục này, các soạn giả nên đọc chọn tiếp những cố tác giả sau, mỗi vị 1 bài tiêu biểu, hay nhất, tùy theo cảm quan của soạn giả: Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh,  Sóng Hồng và Xuân Thủy, Trần Dần và Phùng Cung, Lê Đạt, Hoàng Hưng, Dương Tường, Hoàng Yến, Hữu Loan, Hoàng Tố Nguyên, Thanh Tịnh, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa,… và những nhà thơ đã khuất núi đáng kính khác… Nên có những bài đò đưa trang trọng, sâu sắc về bài thơ được chọn như thêm một nén tâm hương kính bái Người Thơ đã đi xa, đặc biệt đối với các tác giả ít quen biết, nổi tiếng và những bài thơ hay của các tác giả nổi tiếng nhưng ít được chú ý phân tích bình luận, giới thiệu với đông đảo bạn đọc.
          Đọc 21 bài thơ hay của 21 tác giả đã từ trần trong tập TBT6 này, tôi được thêm một lần bồi hồi với Tạm biệt Huế của Thu Bồn, bởi những câu thơ lãng mạn, duyên dáng, tài hoa, xuất thần, rất Huế tựa hồ những câu thơ vĩnh biệt, báo trước cuộc ra đi não lòng:
          Nón rất Huế, nhưng đời không phải thế/Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng/… Con sông dùng dằng, con sông không chảy/Sông chảy vào lòng Huế rất sâu/…Tạm biệt nhé, chiếc hôn thầm lặng/Anh trở về hóa đá phía bên kia!...
          Tôi cũng lại muốn thêm một lần những động tác cơ thể, từ lả lướt, dập dìu đến quay cuồng: Say đi em, dưới ánh đèn mờ ảo, nhịp kèn biếc dặt dìu, trong vũ hội đăngxinh, thả hồn đê mê lên tiên trong thoáng chốc cùng Vũ Hoàng Chương – ông hoàng say nàng tiên nâu khói huyền lên và hoa đăng một thuở, cũng là tác giả những lời thơ hào hùng, sảng khoái hồi đầu Cách mạng:
          Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại/Năm cánh xòe trên  năm cửa ô.
          Theo u tôi, cùng Đoàn Văn Cừ trên Đường về quê mẹ, mỗi mùa xuân, để ngắm cò trắng bay từng lớp/Xóm chợ lều phơi xác lá vàng… để nhớ thương, ngậm ngùi một thời đói nghèo, gian khó đã qua, sẽ không bao giờ trở lại!
          Tôi lại thấy rung mình như nghe văng vẳng đâu đây tiếng đàn nguyệt chậm, lạnh, buồn vang trong đêm trăng sáng, trời trong, đêm thủy tinh để nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê, qua Nguyệt cầm sang trọng, hiện đại mà lãng mạn cổ điển của Hoàng tử thơ tình Xuân Diệu
          Phút chốc lại bừng bừng hứng khởi cuốn theo chùm Lửa đèn (Đèn, Tắt đèn, Thắp đèn) của cánh chim phượng hoàng Trường Sơn Phạm Tiến Duật, mắt chói lóa, lấp lánh muôn màu trong những đêm hành quân trên những cung đường Trường Sơn thời chống Mỹ…
          Nhớ nữ sĩ Vân Đài, qua những câu thơ Trưng nữ Vương đẹp sang trọng, quyến rũ, ngời tỏ mặt anh thư đất Hà Thành một thuở:
          Ải Bắc, quân thù kinh vó ngựa/Giáo vàng, khăn trở, lạnh đầu voi/Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá/ Trăng chếch ngôi trời, bóng lẻ soi.
          Theo hồn linh Phạm Hầu lên thăm Vọng hải đài rồi Tiễn chân anh Khóa xuống tàu với Á Nam Trần Tuấn Khải
          Cùng Bích Khê ngạc nhiên khi nghe khúc Tỳ bà (thể thất ngôn toàn thanh bằng):
          Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng/Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông!
          Xin được chiêm bái 21 bài thơ hay và nghiêng mình tri ân, chúc xuân 21 hồn linh Người Thơ Việt đang thích thảng rong chơi giữa trời xuân Đinh Dậu!

IV. 40 tác giả thơ hay đương thời (xếp theo ABC; trọng tâm)

          Người ít nhất được chọn 1 bài (2 người), nhiều nhất (Hữu Thỉnh): 8 bài. Thật phong phú đa dạng về nội dung: đề tài, chủ đề; hình thức thể loại, truyền thống dân tộc, tự do, hỗn hợp, thơ văn xuôi, tùy hứng – tùy bút, ngắn thì tứ tuyệt, bốn chữ, năm chữ, thất ngôn, lục ngôn, tám chữ, trữ tình tâm tư, trữ tình thế sự… Chỉ thấy vắng bóng thơ trữ tình chính trị, trữ tình chính luận, nhất là trào phúng -châm biếm?!… Nhưng thế cũng đã quả là một vườn hoa thơ Việt Nam đương đại trăm hồng ngàn tía, đua nhau khoe sắc tỏa hương. Những bài hay vì phát hiện được tứ sâu, bất ngờ; bài truyền cảm vì tình cảm chân thành, giản phác; bài hấp dẫn vì sự tìm tòi hình ảnh, từ ngữ, nhịp điệu; bài hướng nội trĩu nặng suy tư chuyện mình, chuyện đời khoác vẻ ngoài bình tĩnh, thanh thản, kìm nén; bài khơi căng cảm hứng về tình huống mâu thuẫn bên ngoài và bên trong như kịch thơ;…         Tóm lại một câu là: Bài hay chen lẫn bài vừa/ Dân gian – hiện đại, chẳng thua nước ngoài!/Không tin, thử đọc dăm bài!
          Chẳng hạn, chủ đề quê hương làng xóm đã quá quen thuộc và phổ biến trong thơ Việt từ xưa đến nay với không ít bài thơ đạt tới đỉnh cao. Quê hương của Đỗ Trung Quân xuất hiện đầu những năm 80 thế kỷ trước là một đột phá trong cách thể hiện chủ đề này qua những so sánh - ẩn dụ rất quen thuộc, những câu hỏi tuồng như ngớ ngẩn, phổ biến của trẻ thơ tuổi mẫu giáo mà sao vẫn làm người đọc sững sờ, ngạc nhiên: Quê hương là gì hở mẹ? Và những câu trả lời còn làm ta ngạc nhiên hơn nữa: Quê hương là chùm khế ngọt, là đường đi học, con diều biếc, là đêm trăng tỏ, dậu mồng tơi… kể mãi vẫn chưa hết, chưa đủ… Và cuối cùng, đoạn kết gợi nhắc, thức tỉnh, bừng ngộ một chân lý vô cùng giản dị, thiêng liêng về tình cảm quê hương – lẽ sống làm người. Có câu thơ ngỡ như nói điều hiển nhiên, quá đơn giản, mà sao ở đây không hề thấy vướng gợn, ngây ngô: Quê hương như mẹ, với mỗi người chỉ một mà thôi! Tình cảm quê hương xác định phẩm cách người nơi mỗi con người. Bài thơ được phổ nhạc thành bài hát, càng được lan rộng và truyền bá khắp muôn nơi, ra cả nước ngoài.
          Đến Mai Bá Ấn, trong Làng tôi, vẫn tiếp tục lối nhẩn nha hồi cố - kể - tả - suy ngẫm về cái làng của mình với những hình ảnh và kỷ niệm ấu thơ vừa quen vừa lạ: 
          Ngọn bàng già, dồng dộc về xây tổ (thú thật cho đến nay, tôi vẫn không biết dồng dộc là loài chim gì?!)/ Hót ríu ran trong bảng lảng trời chiều/Chùa Tiền Nhơn lam một màu rêu cổ/Cha vuốt râu, ngâm lửng mấy câu Kiều…? Ngày thơ bé lùa trâu ra sông tắm/Con sông Trầu lờ lợ nước chè hai! (so sánh thật ấn tượng!)/ Mò lên bờ ăn trộm dưa cậu Tám/Bà ngoại thắt cười (cụm từ thắt cười: đắt!)… mở túi lấy trầu nhai… Cũng như thằng bé Duy Nhuệ trong Đò Lèn thích ăn trộm nhãn chùa Đồng. Trẻ con làng Việt nào chẳng thích ăn trộm hoa quả như 1 trò chơi đầy hấp dẫn! Nhưng thằng cu Ấn này ăn trộm nhiều lắm, “giỏi” lắm, hết vườn này sang vườn khác mà chưa bị bắt bao giờ! May thế!
          Qua Chợ quê, cũng một lối kể - tả chân phương kiểu Hà CừChợ quê, con tép cũng gầy/Con cua, con ốc dính đầy bùn non…; trong khi Lê Đình Tiến nhớ thương, tái hiện những hình ảnh:
          Chỉ thương cái dáng mẹ tôi/Có mớ rau lợn cũng ngồi cả trưa…/Thương bà đầu chợ chưa chồng/vẫn hàm răng vẩu che thầm cười duyên…/Chợ quê trái thị còn thơm/Để thương để nhớ một miền đã xa
          Không khi ngờ gì nữa, từ thời Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ đến thời cuối thế kỷ 20, thơ trữ tình - thế sự Việt về làng quê, người quê, chợ quê quả đã đã tiến lên được một bước dài theo hướng hiện đại hóa trong nghệ thuật biểu hiện, dù vẫn khuôn trong những thể thơ truyền thống dân gian: lục bát, thất ngôn, ngũ ngôn…
          Nguyễn Bính Hồng Cầu (con gái nhà thơ chân quê Nguyễn Bính) thể hiện một tình huống bi kịch người phụ nữ muộn chồng (50 tuổi) thật đắng đót, xót xa, cảm động như khứa vào tim người đọc:
          Đêm chông chênh nỗi mình câm nín/ Nghiêng bên nào cũng trống hoác mùa đông./ Nằm cạnh chồng, chị ngỡ mình Tô Thị/ Bốn cõi nhân sinh biết vọng nơi nào?/ Vốc thời gian tuột qua từng kẽ ngón / Chút lỡ làng lỡ trao, lỡ nhận/ Đau đáu trăm năm lỡ một phương chồng
          Bao nhiêu éo le, ngậm ngùi khó nói… Nhưng thân phận chị là thế. Biết làm sao?! Bi kịch thiệt thòi ấy, dai dẳng hiện tồn trong xã hội hiện đại thời nay cũng làm sao mà gỡ, mà giải nổi?!
          Trong một hướng tư duy – cảm luận ngược lại, Bao giờ của Song Hảo lại phả vào hồn tôi ngọn gió ngọt ngào, ấm áp, êm ái lòng vị tha của người phụ nữ nhẹ nhàng, tự nhiên như hơi thở. Điệp khúc:
                   Bao giờ anh đau khổ/Hãy tìm đến với em…
láy đi láy lại thành chủ âm bài thơ 4 câu, đặng sẵn sàng an ủi, sẻ chia, đón đợi … Giản dị thế thôi mà,… anh!
          Nhưng cũng có em, chỉ cần quan sát qua 2 hành vi rất nhỏ, có vẻ rất vô tình, lơ đãng: không đậy nắp bút, khi viết xong;  quên cài khuy áo ngực cho em, (lúc mãn cơn tình tự)… trong cư xử, sinh hoạt thường ngày, khi yêu nhau, âu yếm… là đã đủ để em nhìn ra bản chất tính cách, tình cảm ích kỷ của anh… Và quyết định chia tay, chấp nhận Tan vỡ. Bản lĩnh sâu sắc, tinh tế và quyết liệt đến thế. Tan vỡ  (Dư Thị Hoàn) đã trở thành bài thơ tình hiện đại hay, được đông đảo bạn đọc chia sẻ, đồng cảm từ hàng chục năm lại nay là vì thế.
          Người đàn bà ngồi đan là một bài thơ hướng nội và gợi mở sâu sắc của Ý Nhi qua sự suy luận và ngẫm ngợi, lý giải, liên tưởng từ hành vi của nhân vật trữ tình vừa nhẫn nại vừa vội vã. Cấu trúc hướng nội liên tục được xoáy sâu mãi vào nhờ những câu hỏi tu từ với cụm từ - câu hỏi tu từ điệp hay là thế này, hay là thế kia?... nảy ra trong lặng câm, lặng lẽ, bình thản…, dường như chỉ được nhìn từ bên ngoài mà suy đoán, tưởng tượng. Hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa gợi biểu trưng: Cuộn len dưới chân chị như quả cầu xanh đang lăn những vòng chậm rãi mang tính gợi mở đa chiều rất cao.
          Tính hiện đại – trí tuệ mà vẫn rất thơ của bài thơ độc đáo này là ở đó.
          Thơ Nguyễn Bảo Sinh trong TBT6 lại không chọn những bài hay quen thuộc hướng ngoại mang tính phê phán, châm biếm xã hội sắc nhọn mà chọn chùm thơ triết lý đượm màu Phật – Thiền sâu thẳm: Cảm kinh vô tự, Cảm Phật Tổ Như Lai, Lên chùa, Cảm Vô Vi hòa sắc Đạo – Đờixưa – nay một cách kỳ lạ, với 2 câu cuối đầy bất ngờ, hóm hỉnh:
          Ai cầu trời bằng bất cứ ngôn ngữ nào trời cũng hiểu/ Trời biết nhiều ngoại ngữ nhất…!
          Bỗng nhiên lại được đọc lại Nghỉ hè (Xuân Tâm) ra đời từ thời Thơ Mới mà vẫn thấy trong trẻo biết bao tâm trạng thời học trò áo trắng trước khi được về quê nghỉ hè:
          Sung sướng quá, giờ cuối cùng đã hết/ Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về/ 90 ngày nhảy nhót  ở miền quê/ Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ!
          Đọc Nghỉ hè, cứ nhói lòng chạnh thương cho lũ học trò cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 hiện nay, học hành lu bù quanh năm, bị người lớn “cướp không” của chúng cả 3 tháng hè thần tiên! Hãy trả lại tuổi thơ, tuổi hồn nhiên cho các em!
          Chùm thơ chọn của Hữu Thỉnh là chùm thơ đặc sắc, nổi tiếng từ mấy chục năm nay. Chân mộc, cảm động như Phan Thiết có anh tôiNgôi nhà của mẹ. Tình tứ, diết da, mới lạ là Thơ viết ở biển. Bài thơ còn được giai điệu âm nhạc của Phú Quang (Biển, nỗi nhớ và Em) chắp cánh bay vút lên và lắng đọng mãi trong lòng người nghe – người đọc những hình ảnh, âm giai ngân nga, man mác sâu thẳm:
          Anh xa em/Trăng cũng lẻ/Mặt trời cũng lẻ/Biển vẫn cậy mình dài rộng thế/Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn/Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn/Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tim/Sóng? Chẳng đi đến đâu/… dù sóng đã làm anh nghiêng ngả/ vì em…!
          Rõ ràng, từ Biển (Xuân Diệu), Thuyền và biển (Xuân Quỳnh – Phan Huỳnh Điểu), Sóng, Chỉ có sóng và em (Xuân Quỳnh), Biển và Em (Tế Hanh, Trần Đăng Khoa) đến Thơ tình viết ở biển (Hữu thỉnh) thơ về tình yêu và biển cả Việt Nam đương đại cũng đã tiến lên một bước dài trên lộ trình hiện đại hóa.
                                                           ***
          Trở lên là những cảm luận, nhận xét bước đầu của tôi về 3 tập sách mới do anh chị Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên chủ biên, vừa xuất bản quý IV năm 2016 và được long trọng tổ chức ra mắt – tặng sách ở Thủ Đô Hà Nội yêu dấu trong ngày đầu xuân Đinh Dậu này.
          Tự nhận thấy sự đọc - viết của tôi còn sơ sài, vội vã. Sức nghĩ, kiến văn còn hạn hẹp, cạn nông; nên chắc chắn những lời giới thiệu trên còn cụng về, những ý kiến nhận định, phẩm bình còn phiến diện hoặc chưa tới, tay chèo đò đưa, cậy, bát còn chưa mát mái, không tránh được dài dòng, lòng vòng luẩn quẩn, có khi thấy cây chưa thấy rừng, lại rất nông nổi, chủ quan, làm mất nhiều thì giờ của quý vị ở đây… Xin được cảm thông và lượng thứ!
          Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn anh chị Bảy – Liên, các vị trong nhóm đọc - chọn – biên tập và cảm ơn toàn thể quý vị có mặt hôm nay!
          Chúc các anh chị một mùa xuân mới Đinh Dậu an lành, một năm mới an khang, hạnh phúc!
          Không gì bằng, không gì hơn từng cảm nhận riêng của mỗi cá thể - cá nhân người yêu Thơ trong quá trình tự mình đọc - ngẫm bộ sách quý này.
          Nào! xin mời quý vị, ta hãy cùng ngâm câu Kiều lẩy:
Cảo thơm, lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục, say truyền Tuệ - Tâm!

Trèm- Thụy Phương, Bắc Từ Liêm, Hà Nội
Từ 1-7 (khai hạ) Tết Xuân Đinh Dậu (3/2/2017)
 
Đường Văn kính bút!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét