Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2019

CHÉM GIÓ MUÔN MÀU 4. PHẦN TÌNH THƠ BẠN THƠ / 10. BỐN MÙA / Thơ NGUYỄN NGUYÊN BẢY

 

Dự án sách TBT/ VBV
Chém Gió Muôn Màu - Trọn Bộ 4 Tập
Đã Xb 1,2,3. Tập 4 khởi Bt 2019, Xb 2020


CHÉM GIÓ MUÔN MÀU 4.
PHẦN TÌNH THƠ BẠN THƠ


10.
BỐN MÙA

Thơ NGUYỄN NGUYÊN BẢY


Nếu em là hạt mưa xuân

Anh là chồi biếc uống chầm chậm em

Nếu em ngọn gió hè lên

Anh xin là cánh diều êm lưng trời

Nếu em trăng thu chơi vơi

Anh nằm trên cỏ hát cười cùng trăng

Nếu em đơn chiếc mùa đông

Anh là nắng ấm ửng hồng má em

Dù em chỉ muốn là em

Nhưng anh vẫn cứ là anh bốn mùa..


Trần vân Hạc, đò đưa:


Bài thơ chỉ có năm cặp lục bát mà có tới bốn từ mang tính giả thiết “nếu” và năm từ: “là”, cùng những hình tượng nghệ thuật như “mưa xuân”, “gió hè”, “cánh diều”, “trăng thu”, “mùa đông”… nhưng đã chuyển tải được những giá trị cùng những cung bậc tinh tế và sâu sắc nhất của tình yêu chân chính của đời người. Tình yêu của thi sĩ đã từng trải qua “bẩy nổi ba chìm” có khác. Chân tình, mạnh mẽ, ào ạt như sóng xô bờ, đầy nam tính mà không xô bồ, dung tục. Thi sĩ giả thiết người mình yêu là “hạt mưa xuân”, hạt nhỏ nhoi thôi nhẹ bay nhưng tưới nhuần cây cỏ, đánh thức một mùa xanh đầy sức sống. Cái mùa mà khi nói tới, tất cả các tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa… đều gắng miêu tả sức sống hôi hổi diệu kỳ và cảm xúc cứ trào dâng trong lòng người và đất trời. Khao khát, vậy mà thi sĩ vẫn gắng “uống chầm chậm em”. Có lẽ trong cảm nhận của thi sĩ, tình“em” có cả tình yêu của mẹ, của chị, của người em, của những gì đẹp nhất mà cuộc sống ban tặng như suối nguồn trong mát không bao giờ vơi cạn, bởi vậy dẫu thi sĩ có nhận mình “là chồi biếc”, thì đó cũng do “hạt mưa xuân” thổi hồn, nên phải “uống chầm chậm” mới có thể cảm nhận được hương vị tuyệt vời tình yêu của người phụ nữ mà tạo hóa ban tặng cho đời, thông qua tình em. Và nếu biết “uống chầm chậm” thì mới biết trân trọng, nâng niu và cảm nhận được vị ngọt cùng đắng cay của tình yêu để rồi như một điểm tựa vượt lên tất cả những trở lực của cuộc sống.


“Nếu em ngọn gió hè lên”, ngọn gió lồng lộng trên bầu trời cao xanh, thì “Anh xin là cánh diều êm lưng trời”. Cái từ “êm” sao mà đắt giá, mang một sự đồng điệu đến tuyệt vời, gió nâng cánh diều bay cao, diều nương gió nhẹ bay trên trời rộng, cùng vươn đến chân trời mơ ước.


Đến câu: “Nếu em trăng thu chơi vơi” thì đã ẩn chứa những tâm tư sâu kín đầy sự trải nghiệm. Trăng thu, mùa trăng đẹp nhất trong năm không chỉ của trẻ thơ mà “em” lại rơi vào tâm trạng “chơi vơi”, thì “anh nằm trên cỏ hát cười cùng trăng”. Tiếng hát và tiếng cười ấy phải chăng cất lên từ trái tim yêu đồng cảm sâu lắng nhất, chung tình nhất, yêu thương và cả những khổ đau. Tình thơ được đẩy lên một cung bậc mới khi giả thiết cuộc đời éo le, khắc nghiệt: “Nếu em đơn chiếc mùa đông” thì “anh là nắng ấm ửng hồng má em”. Cái màu hồng tươi tắn ấy chỉ có được từ lửa con tim tràn đầy yêu thương, nhân ái.


Bài thơ được đẩy lên cao trào ở câu cuối. Anh đã nêu lên bao giả thiết khó khăn, khắc nghiệt của cuộc đời và bên em cả lúc vui, buồn và đau khổ nhưng nếu: “Dù em chỉ muốn là em”, “Nhưng anh vẫn cứ là anh bốn mùa”. Sự khẳng định đầy nam tính mang bản chất của giới. Anh không bao giờ chiếm đoạt em đâu mà anh mãi là anh, mãi mãi anh nuôi và tin vào tình yêu sắt son chung thủy, để em tự nguyện hiến dâng, hòa hợp và đồng điệu.


Bài thơ ngắn gọn mà hàm xúc, mở ra một không gian và thời gian vô hạn của tình yêu, dẫu tác giả khéo léo giới hạn trong “Bốn mùa” nhưng bốn mùa là chu trình của tạo hóa, của đời người. Bốn mùa yêu phải chăng cho cuộc đời mãi mãi sinh sôi. Bởi vậy bài thơ viết tặng người vợ thân yêu của mình từng chung con “thuyền thơ” vượt “thác thơ” mà như viết cho mọi người.


TRẦN VÂN HẠC

http://www.baohaiduong.vn/


Đò đưa của Hoàng Dân


Nhân vật trữ tình “em” trong bài thơ hiển nhiên phải là “một người con gái” - và sẽ không có kẻ bị bệnh thần kinh nào lại nói đó là… một gã đàn ông! Thế nhưng, trước một người con gái đẹp, bọn đàn ông thường có những cách ứng xử nào? Sẽ có không ít kẻ thèm khát nhục dục manh tâm chiếm đoạt! Chiếm đoạt bằng chức quyền, bằng tiền, bằng vũ lực, bằng bẫy tình… Và tất nhiên cũng có (tiếc thay, số này không nhiều lắm) những người đàn ông đàng hoàng chỉ chiêm ngắm người con gái đẹp như… một cái đẹp của trời đất! Chiêm ngắm để có những khoảnh khắc lâng lâng siêu thoát trong một môi trường vẩn đục những ham hố, bon chen! Nghĩa là “em” trong bài thơ này không chỉ là “em” như ai ai cũng… tưởng, mà còn là một biểu tượng cho cái đẹp đích thực!


Mà cái đẹp đích thực thì vô cùng phong phú, tức là nó có rất nhiều gương mặt khác nhau! Cái đẹp có thể là một giai nhân, một bông hoa, một giọt sương, một tia nắng mặt trời, một ánh trăng, một thảm cỏ, một tiếng chim hót, một dòng sông, một nụ cười…


Thế nên, “em” đã là cái đẹp đích thực rồi thì dù thiên nhiên có xoay vần “bốn mùa” và dù “anh” có ở đâu, trong tư thế nào thì “anh” vẫn cứ bị mê hoặc trước “em” như “gió quyến mây bay, mây quyến gió” vậy thôi! Điều quan trọng làm nên vẻ đẹp của bài thơ là ở chỗ nhân vật “anh” không chỉ là một kẻ hưởng thụ ích kỉ, mà cao hơn, còn là đối tác tri kỉ chia sẻ, nâng đỡ, tôn vinh “em” như một thiên chức của thi nhân!
 
Anh “chầm chậm” chiêm ngắm và thưởng thức cái đẹp để có thể phần nào cảm nhận hết chiều kích, tầm vóc, sứ mệnh… của “em” đối với cuộc đời ba chìm bảy nổi của “anh”! Cái “chầm chậm” ấy vừa giống như một thú vui trần thế, lại vừa thanh cao như những cuộc đàm đạo văn chương của các bậc tao nhân mặc khách trong thiên hạ!

Hẳn ai cũng dễ dàng thấy rằng, tác giả đã có chủ ý sử dụng phép điệp như một thủ pháp nghệ thuật tối ưu! Có điệp hàng dọc cách quãng: Nếu/em/anh… Có điệp mô hình cú pháp: Nếu… (thì) là…
 

Trong ngôn ngữ, mô hình “vì… nên…” thường diễn đạt quan hệ “nhân –quả” (Vì trời mưa nên đường ướt), mô hình “nếu… thì…” thường diễn đạt quan hệ “giả thiết – kết quả” (Nếu em đến thì anh rất vui!), còn mô hình “dù… nhưng…” thường diễn đạt quan hệ “tương phản” (Dù đường xa nhưng anh ấy vẫn đến họp đúng giờ).


Bài thơ có 5 cặp lục bát thì 4 cặp lục bát đầu diễn đạt quan hệ “giả thiết – kết quả”, cặp lục bát cuối diễn đạt quan hệ “tương phản”. Quan hệ “giả thiết – kết quả” thông báo một cái “hiện thực” của thì tương lai, còn quan hệ “tương phản” thông báo một cái “hiện thực” của thì hiện tại – Nghĩa là “em” đang hiện hữu trước “anh” như một món quà của Thượng đế, đó không chỉ là một phần thưởng cho những nỗ lực “hãy tự cứu mình trước khi trời cứu” mà còn là một đặc ân chỉ dành cho những kẻ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn biết trăn trở, thổn thức trước những buồn vui của chúng sinh! Theo tôi, cái hay của bài thơ nằm ở chính cặp lục bát cuối này! Thứ nhất, cái đẹp luôn tồn tại khiêm nhường tới mức dường như nó bị lẫn vào tron
g những cái tầm thường ô trọc, phải có “con mắt xanh nhìn suốt sáu cõi, thấu tới nghìn đời” mới phát hiện ra nó! Thứ hai, một khi đã có “con mắt xanh” thì dù cái đẹp có “biến hình” như “bốn mùa” lặp đi lặp lại quẩn quanh và nhàm chán thì thi nhân vẫn cứ bất ngờ, xúc động và tràn đầy cảm hứng khi chợt phát hiện ra nó đang thấp thoáng trong những đám mây và cả những đám bụi… của muôn đời!

Tôi nghĩ, bài thơ này không chỉ khẳng định tình yêu (lứa đôi) là vĩnh cửu, mà còn khẳng định TÌNH YÊU CÁI ĐẸP là vĩnh cửu, hơn thế: TÌNH YÊU CÁI ĐẸP mới chính là lí do tồn tại của những con người có văn hóa!


Thạch Bàn, khuya 11.2.2017

theo Fb Hoàng Dân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét