Không vống lời, tôi là người thực sự có ba quê, Hà Nội quê sinh, Sài Gòn quê thành người, và Đất Mỹ quê sum vầy cùng con cháu (Tam đại đồng đường). Có quê mà không thưa một lời ơn quê chẳng phái bất hiếu, bất nghĩa lắm sao. Ba lời Ơn Quê đầy ắp kho lòng mà chưa bung mở được, cứ hứa nay, hẹn mai, thẹn quá, cái sự thẹn của người trai tuổi sắp Tám Mươi ngưỡng lú, bút lực run rẩy làm sao viết nổi những lời ơn gan ruột rỡ ràng. Dịp may, con cháu phong danh Mr Seven - Thủ Lĩnh Chăn Bò Xem Đất Mỹ, mà mượn Văn viết Phượt trình qua 7,8 tiều bang Nước Mỹ.. Kết thúc Phượt trình, sức khỏe vẫn trai, bèn té nước theo mưa, viết ba lời ơn này..cũng thể Phượt Văn, kính dẫn.
THANKFUL - LỜI ƠN 1
Cúi đầu dâng Lởi ơn này lên Miền đất đã sinh ra tôi, là Quê Hương, là Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội, là Kinh Thành Cổ Tích..
Tôi đã có hơn một tập văn vần 300 trang, khổ sách 20x20, viết về Kinh Thành Cổ Tích, sách thơ ấy đã thành Kinh Nhật Tụng của gia tộc chi Nguyễn Nguyên. Khai Lời ơn 1, mời cùng chúng tôi Tụng bài Mở: KInh Thành Cổ Tích.
KINH THÀNH CỔ TÍCH
Nơi ấy các cô gái đều là tiên nữ/ Áo quần mớ bẩy, mớ ba/ Yêu nhau bắc cầu giải yếm./
Nơi ấy cốm Vòng gói lá sen xanh/ Chuối đổ mầu trứng cuốc/ Heo may thu vào từ năm cửa ô../
Nơi ấy/ Tôi là đứa trẻ đẻ rơi/ Mẹ trảy hội trên cầu giải yếm/ Các bà tiên chuyền tay nhau bú mớm/ Chuyến tay nhau hát hò/ Chày Yên Thái tôi nghe/ Trái bàng rơi tôi nhặt/ Gạo làng Gióng tôi ăn/ Sông Cái lắm thủy thần/ Rằm, Mồng Một dâng hoa chùa Bộc../
Nơi ấy/ Các bà tiên dạy tôi biết khóc/ Các bà tiên dạy tôi biết cười/ Các bà tiên cho tôi giấy bút/ Dạy tôi vẽ lên trời hình Rồng thăng/ Dạy tôi chép chữ thành vần/ Dạy tôi làm chồng, làm vợ/ Năm ấy Sấm Trạng Trình ran nổ/ Trời thật nhiều đạn bom../
Nơi ấy cốm Vòng gói lá sen xanh/ Chuối đổ mầu trứng cuốc/ Heo may thu vào từ năm cửa ô../
Nơi ấy/ Tôi là đứa trẻ đẻ rơi/ Mẹ trảy hội trên cầu giải yếm/ Các bà tiên chuyền tay nhau bú mớm/ Chuyến tay nhau hát hò/ Chày Yên Thái tôi nghe/ Trái bàng rơi tôi nhặt/ Gạo làng Gióng tôi ăn/ Sông Cái lắm thủy thần/ Rằm, Mồng Một dâng hoa chùa Bộc../
Nơi ấy/ Các bà tiên dạy tôi biết khóc/ Các bà tiên dạy tôi biết cười/ Các bà tiên cho tôi giấy bút/ Dạy tôi vẽ lên trời hình Rồng thăng/ Dạy tôi chép chữ thành vần/ Dạy tôi làm chồng, làm vợ/ Năm ấy Sấm Trạng Trình ran nổ/ Trời thật nhiều đạn bom../
Nơi ấy lẽ Càn Khôn/ Các bà tiên lần lượt về mây trắng/ Con đưa Mẹ đến đầu cầu giải yếm/ Mẹ trắng vào mây/ Mẹ thăng vào gió/ Mẹ đi trảy hội Tiên Rồng../
Nơi ấy/ Đào Nhật Tân nở chấn Cửa Đông/ Áo trấn thủ phủ rêu Cửa Bắc/ Kèn tầu hừng hực Cửa Nam/ Quốc ca hát đỏ sông Hồng/ Nơi ấy là Kinh Thành Cổ Tích/ Nơi ấy là đời tôi../
Hà Nội, 1970.
Tôi không dám khoe là mình đã tới nhiều miền đất trên hành tinh con người này, nhưng dám khoe miền đất nào đã tới, không phải đứng chớp vài chiếc ảnh nhang khói chưng bàn thờ du lịch, mà đến để sống thực người local đất ấy, rồi nghiền ngắm, ngẫm xem phong cảnh/ phong thủy xã tắc sơn hà người để đối chứng với nhan sắc hồn và thực thể xác quê hương mình, mà tu thân cho tự do, nhân quyền, hạnh phúc.
Tôi đến Nga, không phải thời CCCP, mà thời mới Putin, lụi hụi, ngày lại ngày, nhiều ngày, đi tìm đất để lập Một Cái Làng Công Nghiệp Nhẹ Việt Nam tại Nga, cho người Việt miền nghèo sang Nga kiếm sống khỏi phải chui lủi trốn tránh cảnh sát dù đã ở Nga nhiều mười năm vẫn chưa được cấp một tấm thẻ định cư.
Tôi đã đến Trung Hoa (hơn một lần) tìm bằng được, đến tận nơi, không phải Thập Tam Lăng, cũng không phải mộ Tần Thủy Hoàng, mà là tấm bia ghi oai hùng dòng chữ " Bất Đáo Trường Thành Phi Hảo Hán", dựng trước Vạn Lý Trường Thành, sau lưng Bắc Kinh của Thiên Tử tự xưng tụng: " Đông Phương Hồng/ Mặt Trời Lên/ Trung Hoa Chúng Ta Có Mao Trạch Đông", chỉ để khắc lại chữ bia " Đáo Trường Thành - Ngụy Hảo Hán". Ngụy hảo hán mới là danh bia đúng của Vua Mao, vì chỉ là Ngụy hảo hán mới chèn ép, áp bức, giết chóc người Việt Nam bạo tàn, độc ác đến đỏ nước, đen trời, đời này sang đời khác, trần gian này ai cũng ghê kinh, nguyền rủa.
Tôi đã đến Mỹ hơn 10 lần, tính đến lần này, được phong danh Mr Seven Thủ Lĩnh Chăn Bò, lại Phượt Xem Đất Mỹ, bài đang viết làm bằng..
Kể thêm: Tôi đã đến Đại Hàn, đã đến Phi, đến Mã, đến Sing, đến Thái, đến..mà xem đất, mà học văn hóa xứ người..
Kể như thế để rằng:
Với tôi, không một miền đất nào trên hành tinh tinh xanh này xứng đáng được gọi là miền Cổ Tích như Quê hương Tôi, nơi tôi cất tiếng khóc làm người. Miền Cổ Tích không phải là Thiên đường, dẫu Thiên Đường ở đâu/ đó, có thật/ hay mơ ước, thiên đường cũng chỉ là hoang đường, mơ hồ. Nhưng Cổ Tích là có thật, là bà kể mẹ nghe, mẹ kể con nghe, con kể cho con của con nghe..mãi mãi, không cũ, không mòn, không mất bao giờ, tiếp nối muôn đời..
Tạ ơn Mẹ đã sinh con ở Miền Cổ Tích.
Kể như thế để rằng:
Miền Cổ Tích có đã ngàn năm tính từ thời Vua Lý dựng nước, đăt tên là Thăng Long (rồng bay lên). Ơn Trời, Mẹ tôi dã sinh ra tôi ở Miền Cổ Tích, 2.9.1945, xin được miếng khoai thần, Mẹ ăn một miếng, nhường con ba miếng, rồi hai mẹ con bồng nhau lên Ba Đình nghe Tuyên Ngôn Độc Lập. Miền Cổ Tích từ năm ấy huyền ảo với Nắng Ba Đình..
Công bằng mà nói, trước 1945, cõi nhân gian này, trái đất xanh này, được bao nhiêu miền đất, miền nước, bao nhiêu nhân loại biết có nước Việt Nam, có thủ đô tên là Hà Nội, có một tộc người Việt con cháu các Vua Hùng.
Công bằng mà nói, sau 1945 đến nay và dài mãi, toàn thế giới, toàn nhân loại biết về nước Việt nam, người Việt Nam, biết về Hà Nội, Điện Biên Phủ, biết về Huế, Sài Gòn, biết về Trường Sơn, Khe Sanh.. và nhiều hơn nữa.. kể cả món ăn Phở nước, Phở xào..
Tạ ơn Tuyên Ngôn Nắng Ba Đình cho thời chúng tôi một Miền Cổ Tích tràn ngập hào quang và năng lượng.
Kể như thế để rằng:
Tôi đã sống ở Miền Cổ Tích, tên gọi đầy đủ là Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội, là Kinh Thành Cổ Tích, là đời tôi. Khu vực lại cho minh bạch: Đời tôi tính từ ngày khóc chào đời cho tới ngày phải ly hương Miền Cổ Tích là 35 năm.
Cúi đầu tạ ơn Kinh Thành Cổ Tích, thật lòng, không đẩy đưa khách sáo. Sao nói vậy? Là bởi 35 năm ấy dẫu sống với bao nhiêu đắng cay, cơ cực, tủi hờn cũng không thể so được với ơn nuôi lớn nên tôi: tâm hồn tử tế trong veo, đức tin nhân sinh tốt đẹp chắc bền.
Dừng lại. Thơ nhé. Thơ là suối nguồn chân thực. Đọc mà mừng cùng, mà chia sẻ lời ơn của tôi 35 năm son sắt thủy chung với Kinh Thành Cổ Tích.
Thơ Nguyễn Nguyên Bảy
QUAN HỌ KHÔNG NGOẠI TÌNH
/ Tôi chỉ là người trai bắc quàng quan họ/ Hát quan họ mà thành liền anh/
/ Dù biết luật quan họ/ Hát tình tình gửi mây bay/ Hát tình tình vương theo gió/ Thăng hoa tình chỉ được lúng liếng chữ/ Cấm ngặt gửi tình vào môi/ Gửi tình vào tay/ Gửi tình vào da thịt/ Sex phải trong veo/ Không trong veo thì không thành liền anh, liền chị/ Đến hẹn lại lên tình../
/ Khốn khổ thân tôi đa tình/ Phạm luật người quan họ/ Cõng một cánh bèo giạt trôi/ Cánh bèo tôi vốn liền chị con côi/ Cha mẹ bay về trời/ Bỏ lại một chuồng gà vịt/
/ Cánh bèo rằng quan họ bén duyên tôi/ Suốt mưa tháng bảy hát đậu hát cà/ Suốt nắng tháng ba hát bưởi hát na/ Suốt trăng tháng mười hát cơm gạo mới/ Suốt rét tháng chạp hát nướng ngô khoai../ Duyên tình ấy lỗi gì mà quan họ phạt tôi?/ Cõng cánh bèo trên lưng tôi hát thầm, hát oán/ Lời giã bạn/ Quan họ không ngoại tình/
/ Chúng tôi ngược Lim/ Lên rừng cọ đồi chè giao duyên xoan ghẹo/ Chúng tôi xuôi đồng bằng/ Quan họ chèo trúc thẳng trăng nghiêng/ Chúng tôi lên Tây Nguyên/ Quan họ nhẹ mềm hòa cùng rock nặng/ Chúng tôi vào Quảng/ Quan họ hô bài chòi/ Chúng tôi cõng nhau vào Chăm/ Quan họ hở vai, múa bụng/ Chúng tôi chống xuồng ngồi ghe/ Quan họ hát vọng cổ thâu đêm suốt sáng../ Khúc bèo giạt mây trôi hát hoài không chán/ Đến đâu cũng bảo ở đừng về/ Quan họ nghỉ chúng em ra về (*)/ Người nào chẳng có bến quê../
/ Chuyện chúng tôi cõng cánh bèo bỏ làng quan họ/ Xa lắm xa lơ hơn bốn chục năm rồi/ Còn lại mấy ai quan họ cùng thời/ Liền chị liền anh cười câu chuyện cổ../ chúng tôi khiêng về Lim một cỗ thuyền tình/ Bốn mươi năm bèo nở thành thuyền đấy/ Nan nào nan cũng trúc xinh/ Mạn thuyền nào cũng lưng tình quan họ/ Chúng tôi thả thuyền tình xuống hồ bán nguyệt/ Cánh bèo không chịu xuống thuyền/ Cánh bèo trèo lên quán đốc/ Tôi vội mây trôi../
/ Mẹ Cha Ơi Làng Xóm Đây Rồi!/
/ Liền anh cùng thời cười sún răng ô/ Liền chị cùng thời cười vàng ngực lụa/ Gọi cánh bèo là liền em/ Án phạt năm xưa xóa trắng/ Quan họ không ngoại tình/ Liền anh mới chạy xô nhà tầng/ Mặc cho tôi khăn nhiễu áo the xanh/ Liền chị mới thẹn thùng xiêm váy/ Mặc cho cánh bèo hoa cỏ tứ thân/ Rước quan họ ra hồ bán nguyệt/ Chúng tôi lên chật một thuyền tình../
/ Mọi người nhường cánh bèo hát/ Tôi thầm đừng bèo giạt mây trôi / Cánh bèo cười/ Vừa cười bèo đã nở thành sen/ Sen hát bài quan họ chung tình/ Khoan thai thuyền đưa nôi/ Sen ngào ngạt khắp đất trời quan họ../
(*) Lời ca quan họ.
Sài Gòn, 5.2011.
/ Mời đọc tiếp 12/
Văn Phượt/ Xem Đất Mỹ
Mr Seven - Thủ Lĩnh Chăn Bò
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét