Thứ Sáu, 2 tháng 4, 2021

NGUYỄN NGUYÊN BẢY/ MIỀN ĐẤT NGỌT Ở TEXAS ( SUGAR LAND IN TEXAS) Bài 14


NGUYỄN NGUYÊN BẢY

Văn Phượt

MIỀN ĐẤT NGỌT Ở TEXAS 
 
( SUGAR LAND IN TEXAS)

Bài 14
THANKFULL - LỜI ƠN 2


Văn Phượt phạm lỗi tia nhanh, thoáng qua, nên thường sơ sài. Vì sơ sài nên có dịp nhắc lại ý/ việc thì nên nhắc lại, hàm nghĩa nhấn mạnh.

Tôi nhắc lại, nhấn mạnh cái riêng tư: tôi nay đã U80 năm đời sống, cả U80 năm đó đều sống trong một đất nước, một cai trị, nói rõ hơn, từ sinh ra đến 1975, gần 35 năm, sống tại Hà Nội thù đô Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, từ sau 1975 đến nay, 2019, gần 45 năm, sống tại Sài Gòn, thành phố lớn nhất Nước Công Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Dù tên Nước trước là Dân Chủ Cộng Hòa, sau đổi thành Xã Hội Chủ Nghĩa vẫn là Nước Việt Nam theo tiêu chí cai trị Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc.

Tiêu chí cai trị: Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc là một tiêu chí lý tưởng nhất, tốt đẹp nhất ước mơ của cả nhân loại, chứ không riêng gì Tộc Việt, Nước Việt ta. Với tiêu chí cai trị ấy, chưa bao giờ dân tộc Việt có một thời khắc thăng hoa hừng hực khí thế thiên đường như sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Dân trí được khai mở. Lý tưởng chắp cánh chúng ta bay tới những chân trời. Tuy nhiên, trong thăng hoa ấy, tiêu chí cai trị Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc đã tự chặt chém tay mình bằng việc du nhập một nền văn hóa Sô-Trung-Cộng lạ hoắc chễm trệ ngồi trên ban thờ truyền thống Tộc Việt. Đập phá đình chùa lăng tẩm thờ tự xóa cội nguổn tổ tiên. Cải cách ruộng đất con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, bà con làng xóm đấu tố nhau phá vỡ truyền thống đạo đức gia đình, đạo lý cộng đồng. Diệt trí thức " Nhân Văn Giai Phẩm', " Lộc Vàng", diệt tư sản bằng cải tạo, và diệt thường dân bằng tội bị bắt lính, tội làm công cho đế quốc, thưc dân, quan lại..để kiến tạo một giai tầng tham nhũng, ô dù mới.
Thế nên, mới nói, gần 35 năm sống tại Hà Nội, tôi đã sống trong nền văn hóa dân tộc đứt khúc. Tiêu chí cai trị Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc đã dậy tôi định nghĩa mới và cho tôi những trải nghiệm tu thân nếu muốn tồn tại mà tìm một đời sống vị kỷ của riêng mình. Tôi cảm ơn quê hương Hà Nội về điều đó.

Tiêu chí cai trị:  Độc Lập- Tự Do- Hạnh Phúc du nhập vô Sài Gòn, muốn áp đặt, muốn chặt một khúc văn hóa truyền thống liền lạc của Sài Gòn, nên cũng cải tạo ngụy quân, ngụy quyền, cũng cải tạo tư sản thương nghiệp, cũng kinh tế mới, cũng cấm hát ca bolero - nhạc vàng.., người Sài Gòn đón nhận tiêu chí văn hóa ấy theo pháp luật cai trị, nhưng đóng cửa lòng, nhà nhà vẫn bền bỉ kiên trì nuôi dưỡng gia phong, xóm phố, làng phường, người người  vẫn nhân hậu thì thầm bảo ban nhau đạo lý cộng đồng. Đó là bản chất của một nền văn hóa truyền thống liền lạc, tính từ thuở người Việt "mang gươm" đi mở cõi Đất Phương Nam, đến thời các vua chúa sau này..

Tôi vô Sài Gòn nhập vào dòng văn hóa truyền thống tộc Việt được gỉn giữ tại Sài Gòn mà ngỡ như gặp lại đời sống của chính mình, của gia đình mình trước 1954 tại Hà Nội. Tôi cảm ơn về sự gặp lại này. Người Sài Gòn bao dung, nhân hậu như Mẹ tôi, cao thượng chân thành như Cha tôi, thủy chung, tử tế như Vợ tôi, sáng tạo, hòa đồng như Bầu Bạn tôi..Họ nắm tay tôi, ôm tôi vào không gian văn hóa truyền thống liền lạc dạy tôi điều quên, sự nhớ mà tu thân bước trên con đường Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc. Không khách sáo, tôi cảm ơn Người Sài Gòn về  những dưỡng dục này.

Gần 45 năm sống tại Sài Gòn, bằng lao động chân tay và trí óc kiên trì, bền bỉ, trong sạch, tử tế.., tôi đã tu thân đi tới ngưỡng của Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc giản dị, bình thường, như thực, như mơ, mà sung sướng. Sung sướng là bằng lòng. Tôi bằng lòng với thành tựu của mình.

Cảm ơn Nhà văn Tuy Hòa Lê Thiếu Nhơn đã viết bài minh chứng cho thành tựu của chúng tôi, vc Nguyễn Nguyên Bảy - Lý Phương Liên. Bài viết đã đang trên hai tờ báo:

VỢ CHỒNG CẦM BÚT, BUỒN VUI GẬP GHỀNH
(Báo An Ninh Thế Giới Cuối Tháng, số 211/  3.2019)

ANH TUNG CÂU SÁU EM HỨNG CÂU TÁM
Báo Giáo Dục & Thời Đại số 78, ngày 1.4.2019

Trong giới cầm bút, có nhiều cặp vợ chồng nổi tiếng. Thế nhưng, cả vợ lẫn chống đều làm thơ và sống bên nhau trọn đời, lại không có nhiều. Năm nay, Nguyễn Nguyên Bảy - Lý Phương Liên tổ chức đám cưới vàng, đánh dầu nửa thế kỷ họ sánh vai trên đường thi ca buôn vui gập ghềnh. Thi sĩ vợ chỉ cười hiền hậu khi nhắc đến hạnh phúc, còn thi sĩ chồng tếu táo: " Khi mới đến với nhau, chúng tôi nằm trong số những người khổ nhất quả đất đấy. Còn bây giờ, chúng tôi lọt vào tốp những người sung sướng nhất quả đất".

1. Đều sinh trưởng ở Hà Nội, thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy lớn hơn thi sĩ Lý Phương Liên 8 tuổi. Khi chàng cử nhân Nguyễn Nguyên Bảy đã đường bệ cán bộ biên tập ở Đài Tiếng nói VN thì nàng công nhân Lý Phương Liên tập tễnh làm thơ để vơi bớt niềm riêng cay cực. Là chị cả của bốn đứa em. Lý Phương Liên phải bươn chải cùng mẹ gánh vác gia đình khi người cha mất sớm. Năm 18 tuổi, Lý Phương Liên lại hứng chịu thêm một cú sốc, người mẹ trúng bom Mỹ qua đời. Gạt nước mắt, Lý Phương Liên xin làm công nhân ở Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo để nuôi em ăn học. Khoảnh khắc ấy, chị viết: “Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng/ Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại/ An phận ư? Mơ hồ sợ hãi// Sống vẫn lời mẹ dặn thiêng liêng…”. Và cũng từ xót xa số phận mình, Lý Phương Liên đã có bài thơ “Tâm sự với Thúy Kiều” gây chấn động đời sống văn học cuối thập niên 60 của thế kỷ trước. Lý Phương Liên không chỉ khước từ ngõ cụt tăm tối “Sông Hồng đó, nọ Hồ Tây/ Chết trong nước cuốn có ngày nổi lên/ Kiểu gì chết cũng thấp hèn/ Kiểu gì chết cũng làm hoen ố đời” mà còn quyết liệt chọn lấy một sự tồn tại hướng đến tương lai: “Chúng ta mở cửa cuộc đời/ Và cầm lái con thuyền nhân định/ Giữa biển lớn thuyền chúng ta lướt đến/ Sáng toàn thân ánh sáng của con người”!

Vụt lên như một hiện tượng thơ, nhưng đối với Lý Phương Liên, sự thành công dạo đó chỉ đơn giàn “cha mẹ mất sớm, thất học, vì thế thơ tôi chỉ là đôi ba hoa cỏ, ghi chép lại chính cuộc đời mình, nào ngờ thành tiếng mõ cầu rung lên hỉ ái, và cũng là sấm sét nộ ố… Thơ tôi chỉ là thơ học trò bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường, ăn may là do toàn cảnh éo le đắng đời nên lấy được nước mắt của người đọc mà thành thơ. Tôi trở nên nổi tiếng có lẽ là cơ may, vậy thôi!”. Nói là nói vậy, nhưng một nàng công nhân làm thơ “Ca bình minh” về chính nhịp sống lao động bộn bề trên miền Bắc vừa xây dựng vừa ủng hộ miền Nam đánh Mỹ, cũng đáng để công chúng mến mộ: “Bạn bè em có nhiều ý lạ/ Khi nói tới ca ba/ Ca của những đêm đầy trời sao hoa/ Ca của những đêm đông bập bùng ánh lửa/ Còn em với niềm vui bé nhỏ/ Em gọi ca ba là ca bình minh/ Ý nghĩ ấy gặp em như một sự vô tình/ Đêm ca ba đi dọc đường Nam Bộ/ Tay vẫy chào những đoàn tàu rời ga Hàng Cỏ/ Đưa bộ đội lên đường/ Các anh đi suốt ca ba thẳng tới chiến trường/ Đón bình minh đất nước”. 

2. Chính nhờ những câu thơ trong sáng và đắm thắm của cô công nhân Lý Phương Liên, đã khiến chàng thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy tìm kiếm cơ hội hạnh ngộ. Vốn đã đồng cảm với thơ, lại gặp người con gái xinh đẹp và tháo vát, thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy lập tức đem lòng si mê. Bài thơ “Thư tình đầu” được Nguyễn Nguyên Bảy viết năm 1968 đánh dấu thời hẹn hò của họ: “Tình yêu gọi dòng sông xuôi về biển/ Chim đầy vườn ríu rít gọi mai lên/ Mỗi bông hồng chọt hiện một nàng tiên/ Em đã đến để lòng anh thương nhớ”. Còn nàng thì sao? Giữa những giờ đứng máy và bao việc vun vén cơm áo cho bốn đứa em, Lý Phương Liên bất chợt nghĩ đến người yêu ngày đêm chia sẻ những ngược xuôi túng bấn: “Muốn khuyên anh nhiều lắm/ Gặp nào cũng muốn khuyên/ Nhưng gặp lại quên/ Vì sao? Vì sao em không biết/ Cái cười anh thương thương/ Thế là em quên hết/ Rồi về nhà lại lo/ Rồi về nhà lại thương/ Những điều khó nói/ Không đành để mãi trong lòng/ Nên viết gửi anh/ Bài thơ về những điều khó nói”.

Khi tình yêu đã chín muồi, Lý Phương Liên nhận lời cầu hôn của Nguyễn Nguyên Bảy cuối năm 1969. Hoàn cảnh nàng chật vật, mà hoàn cảnh chàng cũng không dễ chịu hơn. Không sao, trái tim thi ca giúp họ tự tin gắn bó với nhau. Cũng chẳng có gì phải chuẩn bị cho ngày làm cô dâu, Lý Phương Liên thắp mấy nén hương lên bàn thờ để “Xin phép mẹ đi lấy chồng” bằng lòng thành trong khói tỏa: “Anh ấy cao cao/ Căn nhà cao đồ đạc thường cũng mát/ Vẻ thông minh thu vào đôi mắt/ Nốt ruồi cửa miệng làm duyên/ Anh đến với con choáng ngợp phút đầu tiên/ Là đôi mắt say và nụ cười như nói…/ Rồi thời gian sẽ đáp lời thủy chung/ Rồi thời gian biết gừng cay muối mặn/ Trong hương thoảng nghe rõ lời mẹ dặn/ Cách làm vợ làm chồng sau đám cưới tình yêu…”. Còn chú rể Nguyễn Nguyên Bảy cũng cam kết: “Anh hứa đôi ta mùa gặt/ Nếp cho đời là nếp cái hoa vàng/ Tẻ cho đời là tẻ xoan tẻ dự/ Anh chỉ xin tình một điều/ Chợt đôi lúc anh lạc mê lạc lú/ Em hãy Bồ Tát khoan dung”.

Hai mảnh đời thi sĩ run rẩy của Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên bước vào cuộc sống vợ chồng với bao khó khăn chồng chất. Lý Phương Liên xa dần những vần điệu khát khao, chỉ còn Nguyễn Nguyên Bảy níu giữ những phút giây lặng lẽ sống, lặng lẽ thơ của họ: “Có em tủi tủi mừng mừng/ Khỏi than thở nỗi chưa từng được yêu/ Có em như có tín điều/ Thuyền đời phải vượt bao nhiêu thác ghềnh”. Nguyễn Nguyên Bảy ghi lại sự bình yên trong lam lũ: “Câu văn vần này em đã không quên/ Anh ngủ nướng ban mai nghe chổi hát ngoài thềm/ Quét bụi mưa bụi gió/ Thức dậy không thấy nón thấy rổ/ Biết là cò đã đi chợ cỏ lau/ Đổi kẹo lạc kẹo vừng lấy củi lấy rau…” và ghi lại sự sóng gió trong tin cậy: “Mất việc, bạn cho mượn chiếc máy may/ Cấp vốn một chỉ vàng/ Vợ te te đi mua vải/ Chồng thành thợ may giên ngang/ Thương vợ mòn chân đi ký gửi hàng/ Học Tú Xương ơn con cò lặn lội/ Người có lúc biết đâu ngày mai hỡi/ Khúc sông này bát ngát một tình ca/ Chở máy khâu trả bạn cười xòa/ Vàng hẹn sẽ có ngày trả đủ/ Vợ ôm con nhìn chồng cười nắc nẻ/ Trên trời máy bay Mỹ đã bay xa”. Nhờ họ có nhau và có thơ, nên tại tổ ấm nhỏ bé mà Nguyễn Nguyên Bảy thường ghi chú “dốc Thọ Lão, căn nhà muỗi 16”, cũng có một “Vườn chiều” mơ mộng: “Một vườn chiều có thực/ Máy bay địch đã bay xa/ Hai đứa nhoi lên từ hầm trú ẩn/ Và một vườn chiều khác hẳn/ Tiên Dung căng màn trên cát mềm/ Sao em chọn chỗ này để tắm/ Chử Đồng Tử tôi nghèo lắm/ Khoan khoan xối nước khoan khoan/ Chớ để thịt da tôi đắc tôi/ Chớ để đau lòng mẹ cha…”

3. Non sông thống nhất, vợ chồng Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên đưa nhau rời Hà Nội vào đô thị sầm uất nhất phương Nam để bắt đầu một hành trình mới mẻ. Thi sĩ chồng công tác ở Đài Truyền hình TP.HCM, còn thi sĩ vợ công tác Đài Tiếng nói nhân dân TP.HCM. Tuy nhiên, thời bao cấp gieo neo, lắm phen cả thi sĩ chồng lẫn thi sĩ vợ phải dắt díu nhau ra chợ trời mua bán đồ cũ để có thêm thu nhập nuôi hai đứa con. Thế nhưng, kinh doanh đâu phải trò đùa. Mấy bận thua lỗ, Nguyễn Nguyên Bảy đành chuyển sang viết… tiểu thuyết, để Lý Phương Liên đạp xe đi bỏ mối cho các hiệu sách.

Đất nước mở cửa, thi sĩ chồng xông xáo tay năm tay mười, còn thi sĩ vợ nhẫn nại dành dụm chắt chiu, cuộc sống của Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên cũng khá giả dần lên. Đứa con trai đầu được đi du học ngành điện ảnh, rồi đứa con gái thứ cũng được đi du học ngành mỹ thuật. Nhiều lần đổi nhà, cơ ngơi sau luôn khang trang hơn cơ ngơi trước, nhưng những nhọc nhằn còn in sâu trong đôi mắt Lý Phương Liên vẫn là nỗi ám ảnh của Nguyễn Nguyên Bảy: “Một nửa tôi không lời/ Thương đau có gì phải kể/ Cảnh mất cha đổ buồn mắt mẹ/ Mất mẹ trút khổ vai em/ Mười bảy tuổi mỏng manh thuyền/ Chèo chống đàn em dại/ Chỉ còn đôi mắt vợ của tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày nắng quật/ Đêm ngôi bỏng vú môi con/ Vai gánh nỗi thương chồng/ Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức với anh/ Đi cùng anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ”

Hiện tại, hai người con của vợ chồng Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên đã định cư ở Mỹ. Ngoài thời gian bay sang bên kia bờ đại dương thăm con bồng cháu, vợ chồng Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên tự bỏ kinh phí biện soạn hợp tuyển văn chương cho bạn bè. Những tập “Thơ bạn thơ” và “Văn bạn văn” rất chỉn chu và rất sang trọng lần lượt ra đời, chứng minh tình yêu văn chương chưa bao giờ nguội lạnh trong tâm hồn họ: “Thơ này em tung câu sáu/ Anh hứng câu tám/ Câu sáu em bay cò trắng/ Câu tám anh ôm tình trắng mướt bến sông xanh”

Sau nửa thế kỷ chồng vợ, cặp thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy – Lý Phương Liên vẫn “ tương kính như tân”. Bằng chứng là thi sĩ chồng có cả tập “99 khúc tặng Liên” để trao dâng ấm áp cho thi sĩ vợ: “Tình yêu hai chúng mình/ Không ngôn từ mây gió/ Không ngọt ngon cám dỗ/ Mộc mạc lời trăng rằm/ Mà nên duyên tri kỷ/ Mà nên tình tri âm/ Vầng trăng con mắt nhìn/ Như thần linh chứng giám/ Mỗi khi gặp hoạn nạn/ Lại nhìn vầng trăng treo/ Mỗi khi tắt lửa yêu/ Lại gọi trăng xin lửa/ Nợ trăng chỉ trả đủ/ Thủy chung yêu một đời. /Tuy Hòa/ Lê Thiếu Nhơn./ 

Tiêu chí Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc của đời chúng tôi, đơn giản chỉ có vậy, không danh vọng tiền tài, không chức tước bổng lộc, một cặp đôi tình nghĩa, một gia đình sum vầy, một cộng đồng hân hoan tử tế..Thiên đường ở đó chứ đâu xa.. 

Vì thiên đường đó chúng tôi đã phải tu thân phấn đấu trọn đời.
Tạ ơn ngày 30.4.1975 lịch sử.
Tạ ơn quê hương Sài Gòn.

/ Mời đọc tiếp 15/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét