32. NGUYỄN ĐỨC PHÚ THỌ
MẮC NỢ PHÙ SA
"Mắc nợ phù sa" là một trong số những bài thơ hay của
nhà thơ trẻ Nguyễn Đức Phú Thọ. Ngay tên nhan đề bài thơ đã gây được ấn tượng cho người đọc, vì
nó có một sức ám gợi lớn, tạo nên những liên tưởng thú vị, có ý nghĩa biểu tượng và giàu
giá trị nhân văn...
Mắc nợ phù sa
Người già quanh tôi luôn hoài niệm về những cánh đồng
Dẫu hạt lúa trả công họ bằng đời người nước mắt
Lũ quét qua đêm sáng ngày tay trắng
Buổi gió sương ghìm nén niềm vui.
Cha tôi
Trùi trũi ngực trần
Manh áo mỏng bốn mùa không kết nút
Từng giọt thời gian…
Bao giọt thời gian rắc mùa lên tóc?
Luống cày đi lấp bóng bàn chân
Những mặc cảm chữ nghĩa neo vào giấc mơ con trẻ.
Tôi cúi xuống
Nơi gót chân tím bầm rịn rơi dáng mẹ
Râm ran nhịp trầm trứng nước Âu Cơ
Tôi bắt gặp
Những người đàn bà quẩn quan
Nhìn ngóng sao trời đếm đong lụt hạn
Thuyền duyên neo không kịp chọn bến đời.
Đã bao lần
Tôi quỳ trước bãi mộ hoang phủ dày đặc cỏ
Trước những tiền nhân khai sáng đất đai gieo trồng giống má
Trước những phận người chưa lần hưởng trái sinh thành
Đã lấp vùi thân thể mình vào cát.
Cánh cò chở ước mơ chưa rạng
Bão đời làm chống chếnh câu thơ
Đêm đỏ mắt phù sa nhói mình mắc nợ…
Nguyễn Đức Phú Thọ
Nguyễn Đức Phú Thọ
(Rút trong tập Nỗi buồn đập cánh, NXB Văn
hóa - Văn nghệ, 2011)
Lời bình
của Nguyễn Văn Hòa:
Mắc nợ phù sa là một trong số những bài thơ hay của nhà
thơ trẻ Nguyễn Đức Phú Thọ. Ngay tên nhan đề bài thơ đã gây được ấn tượng cho
người đọc, vì nó có một sức ám gợi lớn, tạo nên những liên tưởng thú vị, có ý
nghĩa biểu tượng và giàu giá trị nhân văn. Ở đời, con người ta có thể mắc nợ
nhiều thứ: mắc nợ tiền bạc, mắc nợ gạo thóc, mắc nợ áo cơm… Ở đây Nguyễn Đức
Phú Thọ lại mắc nợ với một vùng đất, mắc nợ với tổ tiên, với ông cha. Nhà thơ
gọi đó là “mắc nợ phù sa!”
Bằng
một giọng thơ trong trẻo, giàu cảm xúc, giàu chất suy tư, cách kết hợp từ ngữ
bất ngờ, độc đáo tạo cho thơ Thọ một dấu ấn riêng. Vì thế nhà thơ Hoàng Tuấn
Anh đã rất có lý khi cho rằng:
“Phú
Thọ luôn cần mẫn
gieo - hạt - giống - lạ trên cánh đồng chữ thi ca
để chạm tới mạch nguồn đích thực của thơ trẻ đương đại”.
Mở
đầu bài thơ: Người già quanh tôi luôn hoài niệm về những cánh
đồng/ Dẫu hạt lúa trả công họ bằng đời người nước mắt. Những gian
truân, vất vả, bão giông của thiên nhiên, của cuộc đời hình như đã đè nặng lên
bao kiếp người nông dân tảo tần, xuôi ngược. Để rồi họ phải thầm lặng sống, họ
thầm lặng chống chọi và vượt qua. Những người nông dân chân lấm tay bùn làm ra
hạt lúa phải đánh đổi bằng cả mồ hôi và nước mắt, thậm chí có khi cả tính mạng
con người.
Những thành
quả, những gì họ làm được có thể sẽ trắng tay sau một cơn lũ quét. Lũ
quét qua đêm sáng ngày tay trắng. Trước thảm cảnh như vậy chỉ còn cách ghìm
nén niềm vui.
Hình
ảnh người cha lam lũ, khổ nhọc với: Trùi trũi ngực trần/ Manh áo mỏng
bốn mùa không kết nút. Bao gian khổ cuộc đời đè nặng lên đôi vai của
người cha, bao gánh nặng áo cơm, bao lo toan, vất vả chất chồng còn đó. Từng
giọt thời gian đã làm cho mái tóc cha bạc màu theo năm tháng.
Đối
với nhà thơ Nguyễn Đức Phú Thọ, thời gian có thể chạy theo mùa, theo từng cơn
gió bấc, trong sự chuyển động tuần hoàn theo quy luật tự nhiên. Và với anh,
thời gian còn có thể được nhìn thấy, được hiện hữu bằng màu tóc của cha. Thời
gian được cảm nhận như có hình hài, chiều kích “giọt thời gian” (Từng
giọt thời gian…/ bao giọt thời gian rắc mùa lên tóc). Hình ảnh “giọt
thời gian” là một sáng tạo độc đáo của người viết.
Việc
đồng áng, cày bừa, gặt hái nó trở thành công việc thường nhật bao đời của những
người nông dân cùng với nó đó là những vui buồn lẫn lộn, những nỗi cơ cực bần
hàn. Chính họ cũng ý thức được rằng họ phải dầm mưa dãi nắng phải vật lộn với
đời, họ cam chịu nhọc nhằn vì ít chữ nghĩa. Vì thế Những mặc cảm chữ
nghĩa neo vào giấc mơ con trẻ cũng có cái lý của họ. Ý thức sâu sắc
điều này họ hy vọng và gửi gắm niềm tin, kiến thức vào nơi những đứa con trẻ
của mình.
Bằng
những trải nghiệm và sự nhạy cảm của một tâm hồn, nhà thơ Nguyễn Đức Phú Thọ đã
thấu rõ điều đó.
Sự
hiện diện của mỗi số phận buộc phải đi qua một khoảng thời gian nào đó. Thời
gian nó như là sự ám ảnh. Thời gian - kiếp người - những thăng trầm dâu
bể. Bi kịch phận người không chỉ mâu thuẫn giữa cái hữu hạn và vô hạn
mà còn là bi kịch của sự phi lý. Tất cả để lại trong anh một nỗi nhớ, niềm đau
quặn thắt và anh cảm thấy mình mắc nợ nhiều với nơi đất đỏ phù sa.
Tôi bắt gặp
Những người đàn bà quẩn quanh
Nhìn ngóng sao trời đếm đong lụt hạn
Thuyền duyên neo không kịp chọn bến đời.
“Quẩn
quanh”, “nhìn ngóng”, “đếm đong”: chỉ những phận người bé
mọn, lam lũ, quẩn quanh, sống trong cảnh chịu đựng, là những giọt nước mắt, là
nỗi ưu tư nhân thế, là tâm trạng đau đớn của thân phận nhỏ bé trước kiếp người
và cõi đời mênh mông, lắm đắng cay, dang dở, hụt hẫng và thậm chí là bế tắc. Vì:
Thuyền duyên neo không kịp chọn bến đời.
Sự
quẩn quanh, bế tắc đã đi đến tận cùng: không kịp chọn bến đời chứ
không phải là chưa kịp chọn, sắp kịp chọn, sẽ kịp chọn… Nếu chưa,
sắp, sẽ thì còn có thể và có cơ hội, có hy vọng để tìm đến bến bờ hạnh
phúc. Cái hay của nhà thơ trong trường hợp này là sử dụng từ ngữ có chọn lọc,
độc đáo và hợp lôgic.
Có
nhiều bài thơ Phú Thọ viết về quê hương, đất nước với hình ảnh những người bà,
người mẹ, người em… vừa gần gũi vừa thân thuộc, mang nặng một nỗi niềm.
Vàng bông bí cầu tre ngược dốc
Áo bà ba nón lá em về
Phù sa vỗ chướng mùa trở ngọn
Gánh sông gầy loang chảy điệu dân ca…
(Giai điệu đồng bằng)
Cái
gốc yêu thương của anh là yêu từng con người cụ thể, những con người nhỏ bé với
những nỗi nhọc nhằn cơ cực và có số phận mong manh. Trên cơ sở đó mới yêu
thương mọi người, ghi nhớ, biết ơn, thành kính, trân trọng những bậc tiền nhân
khai sáng, những phận người chưa hưởng trái sinh thành đã lấp mình vào cát, đã
đi xa mãi về thế giới bên kia.
Trên
mảnh đất đỏ nặng phù sa, mảnh đất nghĩa tình - gắn với bao ký ức, niềm thương;
mọi biến cố của cuộc đời dâu bể, của những cơn bão lũ, những trận mưa dông và
cả những vị mặn mòi của vùng đất đỏ phù sa nó đã ăn sâu vào máu thịt, vào từng
hơi thở của anh.
Để
rồi nhà thơ Nguyễn Đức Phú Thọ phải xót xa, đau đớn, khi nghĩ về cuộc đời, về
số phận, về thế thái nhân tình, về những con người ở vùng đất mà anh đã gắn bó,
với những bậc tiền nhân khai sáng, với tổ tiên, với những điều còn đang dang dở
Đã bao lần
Tôi quỳ trước bãi mộ hoang phủ dày đặc cỏ
Trước những tiền nhân khai sáng đất đai gieo trồng giống
má
Trước những phận người chưa lần hưởng trái sinh thành
Đã lấp vùi thân thể mình vào cát.
Cảm
thức thời gian cứ trôi chảy cùng cảm thức về đời người, những hoài niệm về quá
khứ và cả những gì đang diễn ra, nó đã trở thành nỗi khắc khoải, lo âu và cả sự
đau đớn, nghẹn ngào. Tôi cúi xuống…/ Tôi bắt gặp…/ Tôi quỳ… đó một
hành động, một thái độ, một nghĩa cử đáng quý và đáng trân trọng biết bao!
Tận
trong sâu thẳm trái tim mình anh đã phải đau đáu thốt lên:
Cánh cò chở ước mơ chưa rạng
Bão đời làm chống chếnh câu thơ
Đêm đỏ mắt phù sa nhót mình mắc nợ…
Bằng
cách nói ẩn dụ anh dẫn dắt người đọc đi từ sự cảm thông, đau xót đến sự suy
ngẫm.
Mắc nợ phù sa là tình cảm của một người con quê nhà, là sự
trăn trở, lòng biết ơn sâu sắc đến một vùng đất, đến tổ tiên, đến những người
khai sáng, đến ông bà - cha mẹ… Đồng thời đó là tiếng kêu thương
thảng thốt, sự cảm thông đến những kiếp người, phận người bé mọn, lắm vất vả,
đắng cay và tủi cực. Bằng tâm hồn nhạy cảm của một nghệ sĩ và sự ý thức sâu sắc
về trách nhiệm của một người công dân, những niềm vui, nỗi buồn, sự đau khổ,
nỗi lo lắng được Nguyễn Đức Phú Thọ kết đọng lại thành thơ. Tất cả những điều đó
đi vào thơ anh như một sự tự giãi bày, tự mở rộng lòng mình ra. Để rồi trong
sâu thẳm trái tim nhà thơ anh cảm thấy mình còn “mắc nợ”.
Trích
sách Tình Thơ Bạn Thơ 1/
VANDANBNN
gt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét