Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2022

Nhà văn Mai An NguyễN Anh Tuấn/ HOÀI NIỆM TÀU ĐIỆN ĐÊM HÀ NÔI


Nhà văn Mai An Nguyễn Anh Tuấn
HOÀI NIỆM TÀU ĐIỆN ĐÊM HÀ NÔI

BNN: Tàu điện là đặc sản Hà Nội của thời chúng tôi, thời tôi và NAT ấu nhi cho đến lúc trung niên../ Nhân Bài viết Những Tình Bạn Kỳ Lạ của Tôi, bài viết về NAT Mai An Nguyễn Anh Tuấn tôi đặng lại bài Hoài niệm Tàu Điện Đêm, viết từ nhiều năm trước, thơ của tôi, lời bình của NAT để bạn đọc thương mến hơn tình bạn kỳ lạ của chúng tôi.. Thơ Nguyễn Nguyên Bảy TÀU ĐIỆN ĐÊM Tầu chạy cuốn đêm đông Chở độc một người khách Gió trong khoang chật ních Run cầm cập môi hôn Đèn đôi ngọn lom đom Nhợt nhạt vàng mệt mỏi Người lái tầu thở khói Dựng hờ cổ áo bông Phố như một dòng sông Tầu trôi ngang qua cửa Leng keng chuông gọi đỗ Khách mơ hồ xuống ga Tầu ngược về Thụy Khuê Lao nhanh trong giận dỗi Tội nghiệp chuyến tầu cuối Gió toàn là gió hoang Tầu mất hút cuối đường Cây rơi vài phiến lá Tầu về ga tầu ngủ Khách biết ga nào về.. Tác giả không chú thích năm viết bài thơ. Ta chỉ có thể đoán định : đó là vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Hãy hình dung: khi đó, đêm mùa đông Hà Nội vắng ngắt, vắng hơn nữa khi người dân và các cơ quan trường học đi sơ tán khỏi những cuộc ném bom của máy bay Mỹ. Khung cảnh đời sống tĩnh mịch đó làm cái nền cho một hoạt động dường như là duy nhất đang hiển hiện trước mắt - đó là là chiếc tầu điện đang chạy, và nó như được nhân thêm tốc độ bởi hoạt động đơn độc của gió trong không gian vắng lặng; hơn nữa, con tầu hút gió ngược khiến tác giả tưởng tượng rằng nó đang cuốn theo cả đêm đông: "Tầu chạy cuốn đêm đông"! Điều đặc biệt của chuyến tầu điện này là: "Chở độc một người khách". Người khách chẳng phải ai khác, mà chính là tác giả. Ở đây, ta lại gặp một cách thức quen thuộc của thơ Nguyễn Nguyên Bảy là "phân thân" mà tôi từng nói lướt qua trong bài "Thử mở một cánh cửa vào thế giới thơ NNB" (vandanvietnet) - nghĩa là, nhà thơ vô tình (hay cố tình) tách ra làm một người khác để quan sát vị khách đó - vị khách đang chen chúc với gió ( "Gió trong khoang chật ních" ) và chống chọi với giá lạnh bằng cách "Run cầm cập môi hôn"... Cái "chật ních" của gió khiến ta càng có thêm cảm giác cô quạnh, đơn độc - cách dùng từ của tác giả thường lóe sáng tài hoa là ở những chỗ bất thình lình "nhân hóa" và "hóa thân" như thế này! Sau khi quan sát "vị khách lạ" đó, tác giả bắt đầu quan sát cả toa tầu: / Đèn đôi ngọn lom đom/Nhợt nhạt vàng mệt mỏi/Người lái tầu thở khói/ Dựng hờ cổ áo bông/ Chỉ mấy chi tiết thông qua cái nhìn đầy thương cảm của tác giả, đã vẽ lên trước mắt người đọc tất cả sự nhọc nhằn, vất vả, mệt mỏi của người lái tầu và cả sự đáng thương của chiếc toa tầu cũ kỹ có từ thời Pháp thuộc. Hai khổ thơ đầu chỉ là một đợt tả thực, dĩ nhiên là bằng phương pháp "nhân hóa" khá thú vị; và sự "nhân hóa" này được áp dụng một cách khá nhẹ nhàng như giúp người đọc làm quen dần để có thể đưa người đọc vào sâu hơn cuộc hành trình của đêm đông với một nhân vật sống động, có tâm hồn và có thân phận: đó là con tầu.. Tới khổ thơ thứ ba, tác giả đã thoát khỏi sự "phân thân" để từ trong con tàu, chủ động và khách quan nhìn ngắm ra bên ngoài con tàu: / Phố như một dòng sông/ Tầu trôi ngang qua cửa/ Leng keng chuông gọi đỗ/ Khách mơ hồ xuống ga../ Nhưng ở đây, ta có cảm tưởng tác giả đang sống trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh - ảnh hưởng từ sự "mệt mỏi" của con tàu và người lái tàu, cộng với cả đêm đông ào ạt gió đè lên tâm trí sau một ngày làm việc và nghĩ ngợi căng thẳng ( và cũng có thể có cả nỗi đau buồn nữa ). Con tàu không phải đang chạy mà như đang trôi vật vờ trên một dòng sông được tạo thành bởi những con phố phủ ngập sương đêm. Trong khung cảnh ấy, nhà thơ nghe tiếng chuông leng keng như từ một nơi nào xa lắm vọng lại, chỉ còn đủ chút tỉnh táo để biết rằng đó là "tiếng chuông gọi đỗ" - song cũng mơ hồ biết bao, và cũng mơ hồ như chuyện khách xuống tàu, lên tàu. "Khách mơ hồ xuống ga". Khách nào đây? Người khách duy nhất đang mơ tỉnh trên toa, vậy thì chỉ có "khách mơ hồ" mà thôi... Cũng trong cơn mơ tỉnh đó, nhà thơ chợt nhận ra sự đồng cảm lạ lùng của mình đối với con tầu - một sinh mệnh đã từng gắn bó với cuộc đời mình và đồng bào đáng yêu của mình: / Tầu ngược về Thụy Khuê/ Lao nhanh trong giận dỗi/ Tội nghiệp chuyến tầu cuối/ Gió toàn là gió hoang../ Con tàu đang "Lao nhanh trong giận dỗi" xuất phát từ bản thân nó ( sự "giận dỗi" này thực ra cũng là của tác giả gán cho nó) và trong mối thương cảm "tội nghiệp" của tác giả mà nguyên cớ tưởng không đâu: "Gió toàn là gió hoang"... Nhưng câu thơ lại chứa chất biết bao tâm trạng và suy tư của tác giả. Con tàu thực "tội nghiệp" không chỉ vì nó phải chấm dứt một ngày mệt nhọc với những toa tàu rỗng khách và ngập gió hoang, mà còn chính là vì nó phải xa rời không biết đến bao giờ những hành khách dân dã thân thuộc đủ mọi lứa tuổi, với những buồn vui đời thường mà nó chở theo trong cái cuộc sống tuy còn gian nan nghèo khó nhưng thanh bình yên ả... Những ngày bình yên đó dường đang bị cuốn đi theo cơn gió mùa đông, để lại một thành phố phập phồng lo âu mà những ngọn gió hoang như đang chực nhấn chìm tiếng cười niềm vui con trẻ buổi đến trường... Tâm trạng của tác giả phải chăng cũng là tâm trạng của biết bao bậc phụ huynh trong những năm tháng đó, có điều, tác giả đã trải nghiệm nó thông qua cái nhìn của một thi sĩ đa cảm trong đêm mùa đông thời chiến, bằng hình ảnh vừa rất thực tế vừa rất gợi cảm là một con tầu vắng khách chở toàn gió? Bài thơ đến khổ này xem ra cũng có thể kết thúc được với một nội dung ý nghĩa tạm gọi là "xã hội" khá trọn vẹn đã nêu trên, với một địa chỉ xác định (Bến Thụy Khuê). Nhưng NNB không dừng ở đó! Tới đây, sự thử thách đã đặt ra đối với bản lĩnh nghệ thuật của một nhà thơ, và anh đã vượt qua được thử thách nghiệt ngã này bằng đoạn kết: /Tầu mất hút cuối đường/ Cây rơi vài phiến lá/ Tầu về ga tầu ngủ/ Khách biết ga nào về?/ Có bốn "nhân vật" trữ tình xuất hiện ở đây: con tầu, con đường, vài phiến lá, và người khách. Con tầu hóa ra không chỉ đơn thuần là cái tầu điện cụ thể, và nó đã đi "mất hút cuối đường" ( con đường không xác định); vài phiến lá (có thể là lá của bất kỳ loại cây nào ) thì rơi chao đảo trong gió bấc; còn người khách ( không chỉ là tác giả nữa) thì bâng khuâng trước sự cô đơn, trơ trọi của mình giữa đêm đông... Việc con tầu về ga ngủ đêm chỉ là cái cớ trực tiếp để tác giả chạnh lòng liên tưởng tới chuyện: "Khách biết ga nào về"... Thực ra, ngay từ đầu, hình ảnh con tầu đã đặt "đường ray" cho tác giả ngẫm ngợi về thân phận của không chỉ riêng mình mà của con người nói chung trong cuộc đời này; để đến câu kết, sự khái quát mang tính triết học đã bật lên bằng sức mạnh tổng hợp của hình tượng và cảm xúc nghệ thuật... Bài thơ này nếu xuất hiện vào những năm đó thì chắc chắn sẽ rơi vào cảnh ngộ "bị đày đọa" giống như bài thơ "Nghĩ về Thúy Kiều " của Lý Phương Liên - người Bạn thơ & Bạn đời của anh ! Còn trong hiện tại, không khí văn nghệ đã thoáng hơn trước rất nhiều, một bài thơ giàu ẩn ý về thân phận như "Tầu điện đêm" sẽ chỉ làm giàu có thêm cho đời sống tinh thần ; cạnh đó, nó cũng giúp những người trẻ tuổi hôm nay vốn chỉ biết đến tầu điện qua phim ảnh hoặc mô hình vô duyên sẽ có thêm dịp được hiểu một cách trực cảm thế nào là tầu điện - và đó cũng là một cách góp phần làm phong phú nội tâm, kinh nghiệm đời sống, có khả năng giúp ta quý trọng hơn một thời gian khổ và đáng yêu đã qua của Đất Nước.. Nguyễn Anh Tuấn. 99 BÀI VĂN NGẮN MỞ LÒNG Nhà văn Mai An Nguyễn Anh Tuấn HOÀI NIỆM TÀU ĐIỆN ĐÊM HÀ NỘI Bài bt lại tại Sugar Land Houston Texas Hoa Kỳ. August 2021.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét