NHIỀU TÁC GIẢ
Lý Phương Liên-Nguyễn Nguyên Bảy
(Chủ biên)
THƠ BẠN THƠ.4
Sách dày 320 trang, khổ 20x20, bìa cứng, gồm tập hợp thơ của 10 nhà thơ đã mất và 79 nhà thơ đương thời, do Lý Phương Liên và Nguyễn Nguyên Bảy chủ trương, NXB Hội Nhà Văn ấn hành, lưu chiểu 12.2014
C. THƠ NGƯỜI THƠ ĐƯƠNG THỜI
C. Thơ Người Thơ đương thời/ 65
1. Nguyễn Nguyên Bảy/ 68
2. Dã Phong Bình/ 80
3. Trần Bương/ 82
4. Bùi Hạnh Cẩn/ 83
5. Nguyễn Lâm Cẩn/ 88
6. Phan Minh Châu/ 91
7. Đức Doanh/ 94
8. Thạch Đà / 96
9. Ngô Bảo Đài/ 98
10. Hoàng Tấn Đạt/ 105
11. Dương Xuân Định/ 108
12. P.N.Thường Đoan/ 110
13. Trịnh Hoài Giang/ 112
14. Nguyễn Ngọc Hạnh/ 113
15. Tôn Nữ Ngọc Hoa/ 117
16. Nguyễn Trọng Hoan/ 121
17. Đỗ Hoàng/ 124
18. Thi Hoàng/ 127
19. Phùng Văn Khai/ 133
20. Đỗ Văn Khoái/ 13
21. Đỗ Trọng Khơi/ 139
22. Ngọc Khương/ 142
23. Bùi Nguyễn Trường Kiên/ 146
24. Nguyễn Ngọc Kiên/ 148
25. Văn Lạc/ 149
26. Trúc Linh Lan/ 151
27. Vũ Thúy Lan/ 157
28. Tường Linh/ 159
29. Nguyễn Đăng Luận/ 161
30. Lý Hữu Lương/ 163
31. Ma Joan/ 165
32. Nguyễn Xuân Nha/ 168
33. Thế Nhân/ 171
34. Nguyễn Anh Nông/ 173
35. Phăng Xi Păng/ 176
36. Diễm Phúc/ 179
37. Hồ Phi Phục/ 180
38. Hữu Phước/ 182
39. Tạ Phương/ 184
40. Trần Huy Minh Phượng/ 186
41. Võ Quê/ 188
42. Nguyễn Bắc Sơn/ 193
43. Đào Thái Sơn/ 194
44. Nguyễn Thiên Sơn/ 197
45. Nguyễn Xuân Sùng/ 201
46. Nguyễn Ngọc Tân/ 204
47. Trần Gia Thái/ 206
48. Cao Ngọc Thắng/ 210
49. Phạm Thị Phương Thảo/ 213
50. Hoàng Tháp/ 215
51. Hạ Tháp/ 217
52. Lại Đăng Thiên/ 219
53. Đăng Văn Thơm/ 222
54. Hà Diệp Thu/ 224
55. Phạm Việt Thư/ 227
56. Trần Quốc Thực/ 231
57. Đinh Thường/ 232
58. Ngàn Thương/ 232
59. Trần Văn Thuyên/ 234
60. Phạm Dạ Thủy/ 236
61. Lê Hưng Tiến/ 238
62. Từ Nguyên Tĩnh/ 241
63. Dạ Tịnh/ 247
64. Lê Quang Trạng/ 249
65. Đông Trình/ 252
66. Nguyễn Ngọc Trìu/ 256
67. Hoàng Bình Trọng/ 259
68/ Huy Trụ/ 262
69. Phạm Công Trứ/ 264
70. Ngô Thế Trường/ 267
71. Nguyễn Ngọc Tư/ 270
72. Hoàng Anh Tuấn/ 274
73. Trương Công Tưởng/ 277
74. Trương Đình Tuyển/ 280
75. Nguyễn Đăng Việt/ 281
76/ Châu La Việt/ 284
77. Nguyễn Hồng Vinh/ 288
78/ Huy Vọng/ 291
79/ Phan Vũ / 293
1.Thơ NGUYỄN NGUYÊN BẢY
KINH THÀNH CỔ TÍCH
Nơi ấy các cô gái đều là tiên nữ
Áo quần mớ bẩy mớ ba
Yêu nhau bắc cầu giải yếm
Nơi ấy cốm Vòng gói lá sen xanh
Chuối đổ mầu trứng cuốc
Heo may thu vào từ năm cửa ô
Nơi ấy
Tôi là đứa trẻ đẻ rơi
Mẹ trảy hội trên cầu giải yếm
Các bà tiên chuyền tay nhau bú mớm
Chuyền tay nhau hát hò
Chày Yên Thái tôi nghe
Trái bàng rơi tôi nhặt
Gạo làng Gióng tôi ăn
Sông Cái lắm thủy thần
Rằm Mồng Một dâng hoa chùa Bộc
Nơi ấy
Các bà tiên dạy tôi biết khóc
Các bà tiên dạy tôi biết cười
Các bà tiên cho tôi giấy bút
Dạy tôi vẽ lên trời hình Rồng thăng
Dạy tôi chép chữ thành vần
Dạy tôi làm chồng làm vợ
Năm ấy sấm Trạng Trình ran nổ
Trời thật nhiều đạn bom
Nơi ấy lẽ Càn Khôn
Các bà tiên lần lượt về mây trắng
Con đưa mẹ đến đầu cầu giải yếm
Mẹ trắng vào mây
Mẹ thăng vào gió
Mẹ đi trảy hội Tiên Rồng
Nơi ấy
Đào Nhật Tân nở chấn Cửa Đông
Áo trấn thủ phủ rêu Cửa Bắc
Kèn tầu hừng hực Cửa Nam
Quốc ca hát đỏ sông Hồng
Nơi ấy là Kinh Thành Cố Tích
Nơi ấy là đời tôi.
Hà Nội, 1970
KHAI QUẬT HOÀNG TRIỀU
Đất này Hoàng thành Thăng Long
Người du xuân thơ thẩn thẩn thơ..
Vườn xuân đang trong Mùng
Không biết là thời nào vua nào
Chỉ thấy các vua áo vàng, các quan áo đỏ, áo xanh
Dân con áo nâu, áo đen
Dưới nắng luân sinh múa hát..
Góc vườn la liệt bánh dầy bánh chưng
Vua truyền đói ăn khát uống
Ba ngày tết được sống no
Nhưng chớ tham lam tắt mắt lộc về nhà
Sau vườn mắt đao không ngủ..
Một đức vua (?) đang thơ thẩn thơ
Sang tai người du xuân: Ngươi họ chi?
Đáp: Thưa tôi họ Nguyễn
Lời sang tai: Họ mới, họ mới, họ mới
Sau họ Trần tru di họ Lý ?
Sau họ Lê tru di họ Trần ?
Hay sau tru di Mạc Trịnh ?
Tầng tầng tru di
Trăm họ đông đàn thành Nguyễn ?
Nổi giận vì ngày xuân nhắc chuyện tội ác
Người du xuân bực gắt
Vua đã ma sao thét trảm được người
Thơ bước đi mắt tứa máu
Máu mắt hỏi mây
Mây ngàn năm vẫn bồng bềnh Cờ Lau
Máu mắt hỏi gió
Gió ngàn năm vẫn xanh tóc Bạch Đằng
Chỉ có nắng mỗi ngày già xong lại trẻ
Tích chuyện Hoàng Thành xưa rồi nay
Nay rồi xưa
Hoàng Thành khai quật
Lịch sử làm sao chôn?
Áo nâu, áo đen hóa non sông tạc hình trẫm chúa
Bia miệng nhục vinh
Người du xuân bảy mươi tuổi ngẫm tình
Một đức vua (?) rời vườn múa hát
Ngắt một bông hoa điều lại gần sang tai
Tết xán lạn thế sao nhà người không vui?
Không đáp nhanh chân theo nắng
Năng quá Ngọ tóc đã muối tiêu
Đang rừng rực đỏ về chiều..
Mồng 7 Tết Giáp Ngọ/ 2014
BA KHÚC DÂNG MẸ
1. Phật hát
Yếm thắm không bỏ bùa sư
Mà sư cứ đòi xoa yếm thắm
Mẹ bảo này trọc đầu
Trong ngực tôi có Phật
Tôi ấp môi son vú mẹ
Lè phè nằm nghe Phật hát
Phật hát lời cò trắng muốt
Trắng muốt vì cò không phải là công
Phật hát lời cua đi ngang
Dẫu đi ngang cua vẫn chẳng lạc đường…
Suốt tuổi thơ tôi bú lời Phật hát
Quay sa mẹ hát lụa tơ
Ra đồng mẹ hát nắng mưa thuận hòa
Lời trăng thủ thỉ vai cha
Cỏ hoa mẹ hái bao la dành riêng con
Mẹ nhấn véo von
Lòng buồn cũng chớ nhuộm buồn cỏ hoa
Ngày tôi phải rời xa yếm thắm
Mẹ bảo từ nay trong ngực con có Phật
Con thưa trong ngực con có mẹ
Mẹ khóc nhòe và ngực tôi bỗng hát
Lời mẹ hát cò lời mẹ hát cua
Ngực con đầy tiếng mẹ ru…
2. Mẹ khóc
Mỗi khi con thấy mẹ ngồi bệt xuống hè
Tay cầm cây quạt nan
Là con biết mẹ đang đè buồn nuốt giận
Khóc ở trong lòng
Lý Phương Liên-Nguyễn Nguyên Bảy
(Chủ biên)
THƠ BẠN THƠ.4
Sách dày 320 trang, khổ 20x20, bìa cứng, gồm tập hợp thơ của 10 nhà thơ đã mất và 79 nhà thơ đương thời, do Lý Phương Liên và Nguyễn Nguyên Bảy chủ trương, NXB Hội Nhà Văn ấn hành, lưu chiểu 12.2014
C. THƠ NGƯỜI THƠ ĐƯƠNG THỜI
C. Thơ Người Thơ đương thời/ 65
1. Nguyễn Nguyên Bảy/ 68
2. Dã Phong Bình/ 80
3. Trần Bương/ 82
4. Bùi Hạnh Cẩn/ 83
5. Nguyễn Lâm Cẩn/ 88
6. Phan Minh Châu/ 91
7. Đức Doanh/ 94
8. Thạch Đà / 96
9. Ngô Bảo Đài/ 98
10. Hoàng Tấn Đạt/ 105
11. Dương Xuân Định/ 108
12. P.N.Thường Đoan/ 110
13. Trịnh Hoài Giang/ 112
14. Nguyễn Ngọc Hạnh/ 113
15. Tôn Nữ Ngọc Hoa/ 117
16. Nguyễn Trọng Hoan/ 121
17. Đỗ Hoàng/ 124
18. Thi Hoàng/ 127
19. Phùng Văn Khai/ 133
20. Đỗ Văn Khoái/ 13
21. Đỗ Trọng Khơi/ 139
22. Ngọc Khương/ 142
23. Bùi Nguyễn Trường Kiên/ 146
24. Nguyễn Ngọc Kiên/ 148
25. Văn Lạc/ 149
26. Trúc Linh Lan/ 151
27. Vũ Thúy Lan/ 157
28. Tường Linh/ 159
29. Nguyễn Đăng Luận/ 161
30. Lý Hữu Lương/ 163
31. Ma Joan/ 165
32. Nguyễn Xuân Nha/ 168
33. Thế Nhân/ 171
34. Nguyễn Anh Nông/ 173
35. Phăng Xi Păng/ 176
36. Diễm Phúc/ 179
37. Hồ Phi Phục/ 180
38. Hữu Phước/ 182
39. Tạ Phương/ 184
40. Trần Huy Minh Phượng/ 186
41. Võ Quê/ 188
42. Nguyễn Bắc Sơn/ 193
43. Đào Thái Sơn/ 194
44. Nguyễn Thiên Sơn/ 197
45. Nguyễn Xuân Sùng/ 201
46. Nguyễn Ngọc Tân/ 204
47. Trần Gia Thái/ 206
48. Cao Ngọc Thắng/ 210
49. Phạm Thị Phương Thảo/ 213
50. Hoàng Tháp/ 215
51. Hạ Tháp/ 217
52. Lại Đăng Thiên/ 219
53. Đăng Văn Thơm/ 222
54. Hà Diệp Thu/ 224
55. Phạm Việt Thư/ 227
56. Trần Quốc Thực/ 231
57. Đinh Thường/ 232
58. Ngàn Thương/ 232
59. Trần Văn Thuyên/ 234
60. Phạm Dạ Thủy/ 236
61. Lê Hưng Tiến/ 238
62. Từ Nguyên Tĩnh/ 241
63. Dạ Tịnh/ 247
64. Lê Quang Trạng/ 249
65. Đông Trình/ 252
66. Nguyễn Ngọc Trìu/ 256
67. Hoàng Bình Trọng/ 259
68/ Huy Trụ/ 262
69. Phạm Công Trứ/ 264
70. Ngô Thế Trường/ 267
71. Nguyễn Ngọc Tư/ 270
72. Hoàng Anh Tuấn/ 274
73. Trương Công Tưởng/ 277
74. Trương Đình Tuyển/ 280
75. Nguyễn Đăng Việt/ 281
76/ Châu La Việt/ 284
77. Nguyễn Hồng Vinh/ 288
78/ Huy Vọng/ 291
79/ Phan Vũ / 293
1.Thơ NGUYỄN NGUYÊN BẢY
KINH THÀNH CỔ TÍCH
Nơi ấy các cô gái đều là tiên nữ
Áo quần mớ bẩy mớ ba
Yêu nhau bắc cầu giải yếm
Nơi ấy cốm Vòng gói lá sen xanh
Chuối đổ mầu trứng cuốc
Heo may thu vào từ năm cửa ô
Nơi ấy
Tôi là đứa trẻ đẻ rơi
Mẹ trảy hội trên cầu giải yếm
Các bà tiên chuyền tay nhau bú mớm
Chuyền tay nhau hát hò
Chày Yên Thái tôi nghe
Trái bàng rơi tôi nhặt
Gạo làng Gióng tôi ăn
Sông Cái lắm thủy thần
Rằm Mồng Một dâng hoa chùa Bộc
Nơi ấy
Các bà tiên dạy tôi biết khóc
Các bà tiên dạy tôi biết cười
Các bà tiên cho tôi giấy bút
Dạy tôi vẽ lên trời hình Rồng thăng
Dạy tôi chép chữ thành vần
Dạy tôi làm chồng làm vợ
Năm ấy sấm Trạng Trình ran nổ
Trời thật nhiều đạn bom
Nơi ấy lẽ Càn Khôn
Các bà tiên lần lượt về mây trắng
Con đưa mẹ đến đầu cầu giải yếm
Mẹ trắng vào mây
Mẹ thăng vào gió
Mẹ đi trảy hội Tiên Rồng
Nơi ấy
Đào Nhật Tân nở chấn Cửa Đông
Áo trấn thủ phủ rêu Cửa Bắc
Kèn tầu hừng hực Cửa Nam
Quốc ca hát đỏ sông Hồng
Nơi ấy là Kinh Thành Cố Tích
Nơi ấy là đời tôi.
Hà Nội, 1970
KHAI QUẬT HOÀNG TRIỀU
Đất này Hoàng thành Thăng Long
Người du xuân thơ thẩn thẩn thơ..
Vườn xuân đang trong Mùng
Không biết là thời nào vua nào
Chỉ thấy các vua áo vàng, các quan áo đỏ, áo xanh
Dân con áo nâu, áo đen
Dưới nắng luân sinh múa hát..
Góc vườn la liệt bánh dầy bánh chưng
Vua truyền đói ăn khát uống
Ba ngày tết được sống no
Nhưng chớ tham lam tắt mắt lộc về nhà
Sau vườn mắt đao không ngủ..
Một đức vua (?) đang thơ thẩn thơ
Sang tai người du xuân: Ngươi họ chi?
Đáp: Thưa tôi họ Nguyễn
Lời sang tai: Họ mới, họ mới, họ mới
Sau họ Trần tru di họ Lý ?
Sau họ Lê tru di họ Trần ?
Hay sau tru di Mạc Trịnh ?
Tầng tầng tru di
Trăm họ đông đàn thành Nguyễn ?
Nổi giận vì ngày xuân nhắc chuyện tội ác
Người du xuân bực gắt
Vua đã ma sao thét trảm được người
Thơ bước đi mắt tứa máu
Máu mắt hỏi mây
Mây ngàn năm vẫn bồng bềnh Cờ Lau
Máu mắt hỏi gió
Gió ngàn năm vẫn xanh tóc Bạch Đằng
Chỉ có nắng mỗi ngày già xong lại trẻ
Tích chuyện Hoàng Thành xưa rồi nay
Nay rồi xưa
Hoàng Thành khai quật
Lịch sử làm sao chôn?
Áo nâu, áo đen hóa non sông tạc hình trẫm chúa
Bia miệng nhục vinh
Người du xuân bảy mươi tuổi ngẫm tình
Một đức vua (?) rời vườn múa hát
Ngắt một bông hoa điều lại gần sang tai
Tết xán lạn thế sao nhà người không vui?
Không đáp nhanh chân theo nắng
Năng quá Ngọ tóc đã muối tiêu
Đang rừng rực đỏ về chiều..
Mồng 7 Tết Giáp Ngọ/ 2014
BA KHÚC DÂNG MẸ
1. Phật hát
Yếm thắm không bỏ bùa sư
Mà sư cứ đòi xoa yếm thắm
Mẹ bảo này trọc đầu
Trong ngực tôi có Phật
Trọc đầu có sợ ố cà sa ?
Giữa chợ lực điền yếm thắm gặp cha
Cha thẳng đường cày cầu xin yếm thắm
Mẹ bảo trong ngực tôi có Phật
Nếu ngực Phật anh thuận lòng
Thì yếm thắm này thuyền xin theo sông
Giữa chợ lực điền yếm thắm gặp cha
Cha thẳng đường cày cầu xin yếm thắm
Mẹ bảo trong ngực tôi có Phật
Nếu ngực Phật anh thuận lòng
Thì yếm thắm này thuyền xin theo sông
Tôi ấp môi son vú mẹ
Lè phè nằm nghe Phật hát
Phật hát lời cò trắng muốt
Trắng muốt vì cò không phải là công
Phật hát lời cua đi ngang
Dẫu đi ngang cua vẫn chẳng lạc đường…
Suốt tuổi thơ tôi bú lời Phật hát
Quay sa mẹ hát lụa tơ
Ra đồng mẹ hát nắng mưa thuận hòa
Lời trăng thủ thỉ vai cha
Cỏ hoa mẹ hái bao la dành riêng con
Mẹ nhấn véo von
Lòng buồn cũng chớ nhuộm buồn cỏ hoa
Ngày tôi phải rời xa yếm thắm
Mẹ bảo từ nay trong ngực con có Phật
Con thưa trong ngực con có mẹ
Mẹ khóc nhòe và ngực tôi bỗng hát
Lời mẹ hát cò lời mẹ hát cua
Ngực con đầy tiếng mẹ ru…
2. Mẹ khóc
Mỗi khi con thấy mẹ ngồi bệt xuống hè
Tay cầm cây quạt nan
Là con biết mẹ đang đè buồn nuốt giận
Khóc ở trong lòng
Khóc trong lòng nước mắt chảy đi đâu?
Cầu cho nước mắt chảy vào gan vào ruột
Để nước mắt trôi ra ngoài
Nhưng nước mắt không chảy vào gan ruột
Mà chảy vào tim rồi hòa vào máu
Chẳng bao giờ con có thể lau
Những lúc ấy con quỳ trước mẹ
Hai tay dụi gọi Mẹ ơi!
Trên trời tất nhiên có Giời
Nhưng sao Giời nỡ bất công
Để con càng lớn càng cao mẹ càng già càng thấp
Ôm con mặt mẹ úp ngang vai
Mẹ bảo mẹ khóc mừng khóc phúc
Mừng phúc mẹ khóc như mưa
Phùn xuân rào hạ
Mầu khóc hồng son
Con tắm trong khóc mẹ ngập hồn
Tinh chất khóc ngấm vào da vào thịt
Con không chùi không lau
Con không trả khóc về mắt mẹ…
Con biết ở cõi trời Mẹ muốn khóc cũng không thể khóc
Vì thế ở cõi người
Ngày ngày con đem tiếng khóc mẹ ra phơi
Lạy trời đừng phạt mẹ tôi
Tội đón nước mắt con bay ngược về mắt mẹ
Để mẹ lại được khóc
Âm dương cũng đạo làm người
3. Mùa tứ quí
Mười tám ngày tháng Ba (*)
Mẹ cãi dân văn không chịu trông vào (*)
Mẹ gọi rét Bân về cho cha mặc áo
Áo Bân dệt với mưa phùn
Cha mặc vừa in bảo ấm
Mười tám ngày tháng Sáu
Mẹ tần đồng xa mẹ tảo đồng gần
Tép cà gia bản
Cơm ngô khoai độn với sum vầy
No cười như mưa bóng mây
Mười tám ngày tháng Chín
Mẹ theo hịch dân văn trông ra
Váy phùng đòn gánh yếm tơ
Cùng dân làng mẹ đi đón mùa thu
Hớn hở mùa thu chào mẹ
Mười tám ngày tháng Chạp
Mẹ đồ xôi đóng oản
Mẹ nấu chè kho
Mẹ bảo khổ thế nào cũng phải vui ba ngày tết
Rước tổ tông về
Vì thế, và thế
Càn Khôn đón mẹ tôi về mùa tứ quí
Mùa tứ quí có suốt quanh năm
Chả thế tôi làm sao thành một lực điền
Cầy cuốc quanh năm không mỏi mệt
Chả thế làm sao tôi yêu em
Yêu lâu thế mà sông tình vẫn đẹp
Chả thế tôi làm sao nuôi dậy các con
Nếp tẻ đều thành người tử tế
Lạy Càn Khôn, tôi nguyện sống tu thân theo mẹ
Sau trăm tuổi xin cho tôi về làm mùa phú quí
Để tôi hầu hạ mẹ tôi…
(*)Theo ngũ hành: 18 ngày cuối các tháng 3,6,9,12, cộng 72 ngày là Mùa Tứ Quí.
(**) Dân gian nói: Đói tháng Tám trông ra, đói tháng Ba trông vào.
Sài Gòn 1990-2010
BÀI THƠ TÊN LÀ EM
Câu văn vần này em đã không quên
Anh ngủ nướng ban mai nghe chổi hát ngoài thềm
Quét bụi mưa bụi gió
Thức dậy không thấy nón thấy rổ
Biết là cò đã đi chợ cỏ lau
Đổi kẹo lạc kẹo vừng lấy củi lấy rau
Câu văn vần này em giả bộ không nhớ
Nắng đứng chợ trưa sao em mãi chưa về
Mắt lội sông gặp đò mừng rỡ
Anh bế đò lên mặt đê
Hai đứa chạy lướt trên cỏ nắng
Ngã đè dưới cây rơm vàng
Em buộc lại yếm cười nỡm
Trưa ấy nắng trưa được mời cơm trưa
Cá vụn kho tương niêu đất
Câu văn vần này em đã cố quên
Bóng đè sông mê thuyền neo bến lú
Gió như dao cùn thái ruột
Tre già khiêng nắng chôn măng
Vợ gọi vong con ôm ấp
Chồng cắt thịt da đắp nặn áo hồn
Thở than số phận ư, nước mắt?
Mơ hồ ba cõi nhang hương
Câu văn vần này em làm đẹp hoàng hôn
Để tủi buồn cho nắng
Đón cháu cửa trường bà bế bồng hoa
Hai bà cháu là hai bông hoa
Nhanh nhanh về nhà cắm bình ông nội
Bình hoa chói lói thương yêu
Đầy nhà rụa ràn cười nói
Ông nội ôm hoa chặt lòng
Thương nắng ngồi buồn trong tối
Câu văn vần này em hát vu vơ
Trăng già sau một đêm mơ
Vì tình trăng không có thật
Chúng mình hơn hai chục ngàn đêm hẹn hò
Tình vẫn say ong ngọt mật
Bạc đầu hư bạc đầu hát
Đêm mai trăng lại non vào…
Giật mình thấy dạ nôn nao
Giật mình thấy gió thổi vào ngực trăng
Giật mình thấy một vung văng
Ứ ừ đẩy, ứ ừ cầm chân môi
Giật mình thấy khúc khích cười
Thấy non nõn cỏ ngậm bồi hồi sương
Giật mình thấy đạo âm dương
Quấn vào nhau một lạ thường thiên thai..
Ôi thơ miệt mài
Những câu văn vần như thế này nhiều lắm
Giá thấp ngăn cao đầy thư viện lòng
Chờ ngày nắng đẹp phơi bụng đọc
Vợ chép miệng cười
Đọc thế mà không xấu hổ Khoe thế mà không xấu hổ
Yêu ngần ấy năm mà viết không xong bài thơ tặng vợ
Xấu hổ bất lực
Bèn nắn nót chép những câu văn vần
Không đầu không cuối
Thành bài thơ tặng em
Vì thế Bài Thơ Này Tên Là Em
MƯA SEATTLE
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa qua kinh thành cổ tích của tôi
Biến phố đường thành những khúc sông trôi?
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa qua cây gạo làng tôi
Nghe trong mưa tiếng cò con gọi mẹ đứt lời?
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa trước cửa nhà tôi
Em gánh mưa về cong vẹt bờ vai
Mưa Seattle không đáp
Giọt dài nhanh chân nước trôi
Giọt ngắn vội vội cười
Mở lòng đi mưa
Sao mưa Seattle thơm ngọt thế
Môi mềm hoa cỏ nếm mưa
Mở lòng đi mưa
Sao ở quê tôi giận chi mưa mặn thế
Mặn như từ biển lên mưa ?
Mở lòng đi mưa
Nguyện cầu tôi có điều gì chưa phải
Chuông mõ thế nào mưa?
Mưa Seattle đột ngột tạnh
Dư âm vọng một tiếng wow
Mưa nơi nao chẳng giống nơi nào…
Vội vàng níu mưa
Mưa không mưa nữa mưa đi xa rồi
Chuông mõ chìm trong tiếng wow
Mưa nơi nao chẳng giống nơi nào…
Seattle, 2011
Thơ Nguyễn Nguyên Bảy/ Phùng Thành Chủng đọc chọn
/CÒN TIẾP/
Cầu cho nước mắt chảy vào gan vào ruột
Để nước mắt trôi ra ngoài
Nhưng nước mắt không chảy vào gan ruột
Mà chảy vào tim rồi hòa vào máu
Chẳng bao giờ con có thể lau
Những lúc ấy con quỳ trước mẹ
Hai tay dụi gọi Mẹ ơi!
Trên trời tất nhiên có Giời
Nhưng sao Giời nỡ bất công
Để con càng lớn càng cao mẹ càng già càng thấp
Ôm con mặt mẹ úp ngang vai
Mẹ bảo mẹ khóc mừng khóc phúc
Mừng phúc mẹ khóc như mưa
Phùn xuân rào hạ
Mầu khóc hồng son
Con tắm trong khóc mẹ ngập hồn
Tinh chất khóc ngấm vào da vào thịt
Con không chùi không lau
Con không trả khóc về mắt mẹ…
Con biết ở cõi trời Mẹ muốn khóc cũng không thể khóc
Vì thế ở cõi người
Ngày ngày con đem tiếng khóc mẹ ra phơi
Lạy trời đừng phạt mẹ tôi
Tội đón nước mắt con bay ngược về mắt mẹ
Để mẹ lại được khóc
Âm dương cũng đạo làm người
3. Mùa tứ quí
Mười tám ngày tháng Ba (*)
Mẹ cãi dân văn không chịu trông vào (*)
Mẹ gọi rét Bân về cho cha mặc áo
Áo Bân dệt với mưa phùn
Cha mặc vừa in bảo ấm
Mười tám ngày tháng Sáu
Mẹ tần đồng xa mẹ tảo đồng gần
Tép cà gia bản
Cơm ngô khoai độn với sum vầy
No cười như mưa bóng mây
Mười tám ngày tháng Chín
Mẹ theo hịch dân văn trông ra
Váy phùng đòn gánh yếm tơ
Cùng dân làng mẹ đi đón mùa thu
Hớn hở mùa thu chào mẹ
Mười tám ngày tháng Chạp
Mẹ đồ xôi đóng oản
Mẹ nấu chè kho
Mẹ bảo khổ thế nào cũng phải vui ba ngày tết
Rước tổ tông về
Vì thế, và thế
Càn Khôn đón mẹ tôi về mùa tứ quí
Mùa tứ quí có suốt quanh năm
Chả thế tôi làm sao thành một lực điền
Cầy cuốc quanh năm không mỏi mệt
Chả thế làm sao tôi yêu em
Yêu lâu thế mà sông tình vẫn đẹp
Chả thế tôi làm sao nuôi dậy các con
Nếp tẻ đều thành người tử tế
Lạy Càn Khôn, tôi nguyện sống tu thân theo mẹ
Sau trăm tuổi xin cho tôi về làm mùa phú quí
Để tôi hầu hạ mẹ tôi…
(*)Theo ngũ hành: 18 ngày cuối các tháng 3,6,9,12, cộng 72 ngày là Mùa Tứ Quí.
(**) Dân gian nói: Đói tháng Tám trông ra, đói tháng Ba trông vào.
Sài Gòn 1990-2010
BÀI THƠ TÊN LÀ EM
Câu văn vần này em đã không quên
Anh ngủ nướng ban mai nghe chổi hát ngoài thềm
Quét bụi mưa bụi gió
Thức dậy không thấy nón thấy rổ
Biết là cò đã đi chợ cỏ lau
Đổi kẹo lạc kẹo vừng lấy củi lấy rau
Câu văn vần này em giả bộ không nhớ
Nắng đứng chợ trưa sao em mãi chưa về
Mắt lội sông gặp đò mừng rỡ
Anh bế đò lên mặt đê
Hai đứa chạy lướt trên cỏ nắng
Ngã đè dưới cây rơm vàng
Em buộc lại yếm cười nỡm
Trưa ấy nắng trưa được mời cơm trưa
Cá vụn kho tương niêu đất
Câu văn vần này em đã cố quên
Bóng đè sông mê thuyền neo bến lú
Gió như dao cùn thái ruột
Tre già khiêng nắng chôn măng
Vợ gọi vong con ôm ấp
Chồng cắt thịt da đắp nặn áo hồn
Thở than số phận ư, nước mắt?
Mơ hồ ba cõi nhang hương
Câu văn vần này em làm đẹp hoàng hôn
Để tủi buồn cho nắng
Đón cháu cửa trường bà bế bồng hoa
Hai bà cháu là hai bông hoa
Nhanh nhanh về nhà cắm bình ông nội
Bình hoa chói lói thương yêu
Đầy nhà rụa ràn cười nói
Ông nội ôm hoa chặt lòng
Thương nắng ngồi buồn trong tối
Câu văn vần này em hát vu vơ
Trăng già sau một đêm mơ
Vì tình trăng không có thật
Chúng mình hơn hai chục ngàn đêm hẹn hò
Tình vẫn say ong ngọt mật
Bạc đầu hư bạc đầu hát
Đêm mai trăng lại non vào…
Giật mình thấy dạ nôn nao
Giật mình thấy gió thổi vào ngực trăng
Giật mình thấy một vung văng
Ứ ừ đẩy, ứ ừ cầm chân môi
Giật mình thấy khúc khích cười
Thấy non nõn cỏ ngậm bồi hồi sương
Giật mình thấy đạo âm dương
Quấn vào nhau một lạ thường thiên thai..
Ôi thơ miệt mài
Những câu văn vần như thế này nhiều lắm
Giá thấp ngăn cao đầy thư viện lòng
Chờ ngày nắng đẹp phơi bụng đọc
Vợ chép miệng cười
Đọc thế mà không xấu hổ Khoe thế mà không xấu hổ
Yêu ngần ấy năm mà viết không xong bài thơ tặng vợ
Xấu hổ bất lực
Bèn nắn nót chép những câu văn vần
Không đầu không cuối
Thành bài thơ tặng em
Vì thế Bài Thơ Này Tên Là Em
MƯA SEATTLE
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa qua kinh thành cổ tích của tôi
Biến phố đường thành những khúc sông trôi?
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa qua cây gạo làng tôi
Nghe trong mưa tiếng cò con gọi mẹ đứt lời?
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa trước cửa nhà tôi
Em gánh mưa về cong vẹt bờ vai
Mưa Seattle không đáp
Giọt dài nhanh chân nước trôi
Giọt ngắn vội vội cười
Mở lòng đi mưa
Sao mưa Seattle thơm ngọt thế
Môi mềm hoa cỏ nếm mưa
Mở lòng đi mưa
Sao ở quê tôi giận chi mưa mặn thế
Mặn như từ biển lên mưa ?
Mở lòng đi mưa
Nguyện cầu tôi có điều gì chưa phải
Chuông mõ thế nào mưa?
Mưa Seattle đột ngột tạnh
Dư âm vọng một tiếng wow
Mưa nơi nao chẳng giống nơi nào…
Vội vàng níu mưa
Mưa không mưa nữa mưa đi xa rồi
Chuông mõ chìm trong tiếng wow
Mưa nơi nao chẳng giống nơi nào…
Seattle, 2011
Thơ Nguyễn Nguyên Bảy/ Phùng Thành Chủng đọc chọn
/CÒN TIẾP/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét