Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016

Sách Phong Thủy Ứng Dụng/ CHƯƠNG 3/ NHẬN DẠNG ĐẦT & ĐỊNH VỊ TRẠCH

Bìa 1 & Bìa 4 sách Dịch học tập 1.

PHONG THỦY ỨNG DỤNG
CHƯƠNG 3

NHẬN DẠNG ĐẦT & ĐỊNH VỊ TRẠCH

Giải pháp nền đất lập trạch nên thế nào?
Quan niệm coi trọng phần xây dựng hơn phần nền đất là sai lầm. Chẳng phải tiền mua đất cao hơn rất nhiều lần tiền làm nhà đó sao? Đất là căn bản của dương trạch không bao giờ được coi rẻ. Thiếu gì những căn nhà lộng lẫy, nguy nga, xanh xanh đỏ đỏ, được xây cất trên bùn ao, đất bạc màu, thậm chí bãi rác xà bần. Căn nhà cư ngụ xây dựng trên nền đất kiệt khí hoặc khí uế tạp khó lòng cát tường.
Cần vượt qua quan niệm sai lầm: Mặt sàn tráng xi măng, lát đá hoa hay gỗ có thể che lấp được tất cả những gì vùi lấp dưới nó. Và sai lầm hơn khi cho rằng: Vùi lấp thứ gì xuống nền chẳng được, miễn là không tốn tiền, tiền bạc hào phóng cho việc xây dựng và mua sắm trang thiết bị, đồ đạc hiện đại.
Bởi chưa biết: Khí mạch làm sao tốt lành được khi đi qua nền đất xú uế, kiệt, bạc để lên nuôi dưỡng căn nhà.
Vì vậy, phong thủy lưu tâm vấn đề nền đất lập trạch cho căn nhà mới xây dựng hoặc căn nhà đã ngụ nay có điều kiện tu bổ sửa chữa. Giải pháp nhập thế và xuất thế đề xuất.
Nhập thế: Thay toàn bộ (nhấn mạnh, bỏ tất cả, đừng tiếc, dù là loại thổ gì) phần đất đào sâu xuống để đóng cừ, đào móng hoặc hệ thống móng, bằng loại cát thật sạch. Chiều sâu đào xuống ít nhất là 54cm. Giải pháp này gọi là thay chiếu hay nệm mới cho giường. Dòng khí từ dưới đất được lọc sạch trước khi chảy lên nhà. Giải pháp này vô cùng lợi ích cho căn nhà và sức khỏe chính là tài lộc.
Xuất thế: Căn cứ theo Bát Quái đồ và sở nguyện của chủ dương trạch, có thể đặt dưới lớp nền cát này 7 hoặc 9 viên đá (nên đẽo tạc hình con cóc), đặt trên hai lớp 50+45=95 đồng tiền chinh cổ. Viên đá chủ (cóc cái) ngậm 4 đồng chinh nơi miệng và bụng. Cộng là 99 đồng chinh.Đây là giải pháp đặt thổ sinh kim cầu mong điều muốn. Nhập thế thì nên làm, Xuất thế tùy tâm. 

Tại sao phải nhận dạng đất
Trước hết, hãy bỏ qua các yếu tố thần bí, mà đặt trọng yếu tới kinh nghiệm được đúc kết qua ngàn năm. Từ việc con người xem các chân cột để thấy được độ ẩm của đất, xem vầng sáng quanh mặt trăng để tiên đoán thời tiết, và ngay cả mầu xanh một chậu kiểng của một loài thực vật, hay nhìn ngắm con chó, con mèo nuôi mập ốm, để biết được sự mầu mỡ an lành của một vùng đất, đến việc khám phá ra rằng nhà mở cửa hướng Nam thường mát mẻ và mở hướng Bắc thường lạnh giá, nhà trên sườn đồi tránh được lụt lội và nhà trông ra biển người cư ngụ thường khỏe mạnh, ít đau bệnh. Những giải đoán có tính kinh nghiệm đó đã góp phần gây dựng và tồn tại cho đến bây giờ thuyết lý phong thủy. Và phong thủy giải đoán sự cát hung của đất đai qua diện mạo của nó với môi trường xung quanh. Diện mạo đó, vị trí đó được coi là địa mạo. Không nhất thiết phải có "cặp mắt phong thủy" mới quan sát được địa mạo, mà mọi người, với khả năng và kinh nghiệm sống của mình đều nhận ra khí của đất với những quan sát mắt thường, tiền đề cho những giải đoán sau này.

Quan sát mắt thường là thế nào ?
Là quan sát bằng cặp mắt của người không bận tậm đến phong thủy mà chỉ bận tậm đến việc lựa chọn mảnh đất xây dựng căn nhà cho mình. Đó là những quan sát thoạt tiên, nhất thiết không thể bỏ qua. Trước hết quan sát thực vật và động vật xung quanh vùng đất muốn lựa chọn. Nếu cỏ cây có mầu tươi xanh, khí ắt tốt lành và khỏe mạnh. Những vùng đất mầu nâu, mầu vàng hoặc trần trụi tỏ rằng dòng khí đã chảy khỏi mặt đất, nôm na gọi là đất bạc mầu. Long mạch chính là nơi tươi xanh những thảm cỏ, chồi lộc nhú trên cành xanh, bảo rằng chỗ ấy khí sung mãn, nên dựng nhà ở đó. Những động vật hoang dã và gia cầm, mà sắc diện của chúng khỏe mạnh, tươi vui, giúp ta dự đoán sự sung túc, xum họp. Các loại động vật như quạ, cú, chim móng nhọn, chim ăn thịt, chó mèo hoang là điềm báo khí hãm xấu. Nếu không có động thực vật thì cần quan sát những người quanh vùng, những người xóm giềng, xấu tốt hiện ra nơi mặt họ. Sống gần bên những người nổi tiếng, những người giầu sang, những người quân tử, những người cao thượng, đạo đức là cũng được thụ hưởng nguồn khí tốt lành, cát vượng. Ngược lại sống bên những người trộm cắp, thấp hèn, luôn tranh dành cãi cọ, thật khó tránh khỏi những hãm xấu của môi trường. Do đó, việc quan sát cát hung của đất ở, nói chung, mỗi người đều có một khả năng phong thủy nhất định.

Nhưng ?
Nhưng đó chỉ là sự quan sát lựa chọn trong mơ, chỉ có trong thời cổ xưa khi đất đai mênh mông dân cư thưa thớt, người ta có thể lựa chọn cả hình sông thế núi để xây dưng căn nhà cư ngụ cho người sống và miệng rồng để táng nhà cho người chết. Còn giờ đây, tấc đất tấc vàng ao dầm san lấp, ruộng hoang nên nhà, thì việc lựa chọn một vùng đất thuận theo phong thủy cho một căn nhà không phải cứ muốn là được, mà phải chấp nhận theo hoàn cảnh, theo môi trường, và cố sao cho căn nhà được hưởng lợi nhiều nhất cát khí của môi trường tự nhiên ấy. Đất lành chim đậu. Không có vùng heo hút nào cư dân vùng ấy không quần tụ thành xóm, bản, thành thôn làng. Nơi quần tụ ấy chính là đất phong thủy nhất của vùng heo hút ấy. Nên việc được cư ngụ trên đất kinh đô, thành phố, thị xã, thị trấn, làng xóm đã là được hưởng cái phước của phong thủy chốn ấy. Vấn đề còn lại là sự đua tranh nhau dành những miếng đất cát tường hơn. Phong thủy hiện đại tham gia vào cuộc đua tranh ấy với những quan sát thông thoáng hơn và những giải pháp tích cực hơn, ví thể như con đường được coi như dòng sông, nhà cao tầng được coi như là núi, âm thanh, màu sắc, các vật sống, chuyển động, các vật phát sáng...được coi là giải pháp. Và việc lựa chọn những giải pháp nào cho thỏa cái ý muốn Phúc Lộc Thọ là nội lực tự thân của người biết cầu thị, biết nhận sự tham góp ý kiến hay và đúng của phong thủy.

Một vài cách quan sát
Đã nói là quan sát, thì phải cố vận động trí tưởng, bởi không có một địa mạo nào giống như mẫu vẽ. Mẫu vẽ chỉ mang ý nghĩa tham khảo. Và nên thuộc địa mạo quan sát trong trí tưởng để suy ngẫm giải đoán.
Thuộc mặt đất, đó là việc không thể không làm được nếu muốn. Nhưng quan sát dòng khí là điều khó khăn hơn, đòi hỏi chuyên cần, tỉ mỷ và kiến thức. Có thể quan sát dòng khí như quan sát dòng chảy con sông hay con đường. Dòng chảy nào cũng có thượng lưu và hạ lưu, mặt trước của căn nhà ở phía thượng lưu.
Sẽ nhận ra rằng : Quanh nhà ở có đường đi hay dòng sông hiền hòa bao bọc, liền lạc, không phân nhánh, cắt khúc, đó là đất tụ khí, tụ tài lộc. Lại bảo, trước cửa nhà có dòng sông hay đường đi bao quanh, nước chảy êm đềm, thật cát tường cho sinh tồn sinh lý. Lại bảo, dòng chảy thượng lưu chảy ngang qua mặt nhà (là con đường thì quan sát dòng chảy khi trời mưa), đất này vượng thủy khí, lợi việc giao tiếp.
Và cũng dễ nhận ra rằng : Nếu dòng chảy từ hai bên nhà ở hợp lại phía trước cửa nhà, sau đó chảy đi, là đất tán khí. Lại thấy, dòng chảy đâm thẳng vào cửa chính, sau đó phân làm hai nhánh sang hai bên chảy đi, là khí xung sát, xấu hãm. Lại thấy, lưng hình cung của dòng chảy nằm ở phía trước nhà, như cánh cung ngược, cổ nhân cho rằng đất này gia đạo khó yên, hôn nhân trắc trở. Lại thấy, dòng chảy đi qua phía sau căn nhà nhô ra, ưỡn vào lưng nhà, gọi là đất lưỡi nhô, chủ về thị phi, tranh tụng. Dòng chảy đâm vào sau lưng nhà đến gần nhà chảy về hướng khác, gọi là đất nước xói, thủy khí sau lưng sự cố bất ngờ. Dòng chảy càng đẹp thì sát khí càng mạnh. Thác Cam Ly tuyệt đẹp, người ta có thể đến tham quan thưởng ngoạn và nghỉ lại đôi ba ngày. Nhưng nếu làm nhà ở bên thác (nếu có thể) cuộc sống cũng không thể cát vượng, nếu không muốn nói là có nguy cơ điên loạn, đau ốm, bệnh tật. Dòng chảy cong ngược đâm vào sau lưng nhà cũng gọi là đất hung. Hoặc trên dòng chảy hình thành một cung lượn thì gọi là đất Bạch Hổ quay đầu, loại địa hình này rất kiêng kỵ, mất láng giềng, luôn họa ách.
Tóm lại, dòng chảy ôm căn nhà cư ngụ căn bản là cát, dòng chảy tấn công hoặc xói tán khí của căn nhà cư ngụ là hung.

Nhận dạng công trình kiến trúc?
Nắm vững lý thuyết ngũ hành sinh khắc để nhận định.
Hình dạng kiến trúc có dạng hành kim : Hình dáng là cong tròn. Mầu sắc là xám trắng. Công năng là an toàn, là nơi làm việc sinh ra và cất giữ tiền bạc. Vật liệu xây dựng là sắt thép. Một số ví dụ : Cầu, gò, đường cong vòm nóc, nhà làm việc, đường xe lửa, dao kéo, tiền, nữ trang, cung kiếm...
Hình dạng kiến trúc có dạng hành thủy: Hình dáng uốn lượn, lên xuống. Màu sắc từ trắng trong đến đen. Công năng là chuyển động, giao tiếp, ngôn ngữ. Một số ví dụ : Phòng tắm, nhà bưu điện, nhà giặt ủi, rượu bia, tin học, điện toán, điện lực, viễn thông quảng cáo, giao thông, kính...
Hình dạng kiến trúc có dạng hành mộc : Hình dáng vuông cao. Màu sắc là xanh lá cây. Công năng là sinh, dưỡng, tự trọng. Vật liệu xây dựng là mộc. Một số ví dụ : Cột tròn, tháp, tháp canh, phòng ngủ, phòng trẻ nhỏ, phòng ăn, nhà dưỡng nhi, màu họa sĩ, đồ đạc, rau cỏ, nghề mộc, cư xá, cà phê, nhà thương, khách sạn, cây cỏ...
Hình dạng kiến trúc có dạng hành hỏa : Hình dáng nhọn đầu, hình ngọn lửa. Màu sắc là đỏ tía. Công năng là thành tích. Một số ví dụ : Tháp nhà thờ, mũi nhọn, nhà bếp, công nghệ hóa chất, động vật, màu đỏ, đồ da, trí thức...
Hình dạng kiến trúc có dạng hành thổ : Hình dáng vuông thấp. Màu sắc là hoàng thổ. Vật liệu xây dựng là gạch, cát, đá vôi, gốm...thuộc thổ. Công năng là sinh tồn, sinh lý. Một số ví dụ : Dãy nhà chung cư, mái bằng, nhà thấp tầng, hình vuông, tường hầm, nhà để xe, nhà kho, nông nghiệp, đồ gốm, công chánh, nơi bằng phẳng, đất sét, gạch...

Hình thể mảnh đất xây dựng nhà ở nên như thế nào?
Các hình thể mảnh đất:
Hình thể mảnh đất chắc chắn còn nhiều hơn hình thể toán học. Nào vuông, nào chữ nhật, tròn, méo, nửa tròn, méo tròn, méo vuông, tam giác cân, tam giác vuông, ngũ giác, lục giác, bát giác, hình thang, hình bình hành, hình gà, hình cóc, hình rắn, hình chuột, hình hổ quay đầu, hình voi phục, hình lưỡi liềm, hình ngôi sao...Tóm lại là không thể kể hết.
Xu thế chung của phong thủy truyền thống chuộng hình tròn và vuông. Có thể tròn là Trời, vuông là Đất (quan niệm cổ) tượng hình trong đồng tiền chinh cổ tròn ngoài, vuông trong. Cũng có thể bởi vuông và tròn chứa đầy một cái bát quái` với tám điều mà người đời cho là thiết yếu với cuộc sống của mình. Tám điều ấy là: Sự Nghiệp (1), Hôn Nhân (2), Gia Đình (3), Tiền Của (4), May Mắn (6), Con Cái (7), Trí Thức (8), Danh Tiếng (9), Tám điều này xoay quanh trục Trung Tâm (5) chủ hai căn bản của con người là Sinh Tồn và Sinh Lý. Hình vuông và tròn đầy một bát quái, chứa đầy đủ tám điều kể trên, là vậy.
Vậy nên, mảnh đất hình dạng gì chăng nữa cũng nên xây dựng căn nhà trên một hình vuông hoặc chữ nhật, để được tiện ích, cát tường.
Với mảnh đất rộng, thực hiện điều này không khó khăn. Nhưng với miếng đất quá hẹp hoặc không thể bố cục thành hình vuông hoặc hình chữ nhật, thì nên sử dụng các giải pháp nhập thế đưa miếng đất về hình vuông hoặc chữ nhật trong phạm vi có thể của nó. Nói thật dễ, nhưng dịch chuyển một miếng đất hình tam giác, hình méo tròn, hình đuôi chuột...về khuôn vuông hay chữ nhật là điều vô cùng khó. Khó không phải bởi không thể làm được mà khó thuộc về suy nghĩ, tập quán và hoàn cảnh khiến chủ đầu tư không thể thực hiện. Trong các trường hợp nan giải này, xuất thế là giải pháp.

ĐỊNH VỊ ĐẤT VÀ THỔ TRẠCH XÂY DỰNG
( Giải thích qua các thuật ngữ phong thủy)

Thuật ngữ Vọng Khí Ngũ Hành

Mọi thế đất thiên nhiên cao, thấp, vuông, tròn, cong, thẳng, lưỡi nhô, cung ngược, Bạch Hổ quay đầu...đều theo Ngũ Hành mà biến chuyển. Vọng Khí Ngũ Hành là tìm kiếm thế đất có trường khí tuân thủ nguyên tắc tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ trong ngũ hành vạn vật, giúp con người xem xét, điều chỉnh môi trường sống sao cho hài hòa và thuận lợi nhất.
Ví dụ 1: Hỏa địa, thuật ngữ chỉ chỗ thổ trạch mang tính hỏa, dễ bị cháy và khó khăn khi chữa cháy, nên tránh trong lựa chọn nhà đất. Các miếng đất hình tam giác, có các góc nhọn, đường đi vào lắt léo khó lường, thắt hẹp và xộc xệch...đều là hỏa địa. Các khu nhà nhiều mái nhọn sát nhau, vật liệu dễ cháy như tranh tre gỗ giấy...(thuộc mộc dễ sinh hỏa) cũng có nguy cơ cao. Phàm khi chọn thổ trạch, cần tìm nơi có hành thổ làm chủ đạo (bằng phẳng, nằm ngang, vuông vức, không cao quá, không thấp quá) để xây dựng được thuận tiện và ổn định. Nếu gặp hỏa địa, cần phá thế bằng cách làm quang đãng ngoại cảnh, giảm mật độ xây dựng, tránh dùng vật liệu hành mộc và tạo các lối thoát hiểm phòng khi sự cố.
Ví dụ 2 : Mộc địa, thuật ngữ chỉ môi trường, mảnh đất có nhiều cây cối, hoặc nhiếu kiến trúc cao dạng hình trụ, nhà mọc vươn cao và có nhiều cột tròn...đều thuộc mộc địa. Khi tổ chức cảnh quan hay xây dựng nhà cửa nếu dùng các kiến trúc cũng dạng mộc (nhà gỗ, cột tròn, nhà vươn cao) thì sẽ được ổn định. Khi dùng kiến trúc theo dạng hành hoả (mái dốc, nhọn, ngói đỏ) thì được tương sinh mộc hỏa, tuy nhiên, nếu xung quanh nhiều cây cối quá thì phải phát quang, vì mộc vượng, sinh hoả vượng, gặp hỏa hoạn.
Nếu trên mộc địa mà dùng các kiến trúc hành thổ (nhà mái bằng, thấp) thì không phù hợp (mộc khắc thổ) vì dễ tạo ra các vùng lõm giữa môi trường mộc, tích tụ ẩm và gió hút. Về qui hoạch chung, thì qui hoạch đã định vị mảnh đất, chỉ có thể mua miếng đất hợp với mệnh trạch, tuyệt nhiên không thể mua miếng đất nghịch trạch rồi định vị hướng phong thủy theo chủ quan.
Khuynh hướng chung của các khu dân cư đã ổn định và các khu dân cư mới hoặc đang qui hoạch, căn nhà đều định vị theo dòng chảy của các con đường, có nghĩa là trước mặt ngôi nhà luôn là con đường, dù lộ lớn hay đường làng, đường mòn hay đường nội bộ.

2. Thuật ngữ Tam Cương, Ngũ Thường

Tam Cương là phép tắc vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Ngũ Thường là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, là qui phạm đạo đức xưa. Còn trong phong thủy, khi chọn đất làm Dương Cơ (nhà ở) hay Âm Phần (mồ mả), Tam Cương là 3 yếu tố: Khí Mạch - Minh Đường – Thủy Khẩu. Ngũ Thường là 5 thành phần cơ bản của miếng đất: Long - Huyệt - Sa – Thủy - Hướng. Xem xét cát - hung của một thổ trạch đều phải dựa trên Tam Cương - Ngũ Thường, không được bỏ qua yếu tố nào. Khí mạch vượng phải có thêm minh đường thoáng đãng (khoảng đất hay mặt nước phía trước) và thủy khẩu khúc tắc (quanh co uốn lượn, tránh chảy thẳng tuột hoặc phản cung) thì mới gọi là đắc địa.
Tam Cương trạch là chia ba phần đều nhau (mặt cắt ngang và cắt dọc) của miếng đất xây dựng, tính từ mặt tiền nhà, phần tiền được coi là phần quan trọng nhất, gọi là vua tôi, phần giữa được coi là phần quan trọng thứ nhì, gọi là cha con, phần sau được coi là phần quan trọng thứ ba, gọi là vợ chồng.Người chủ đầu tư nên xem xét ý nghĩa quan trọng này mà bố trí các phòng ốc thích hợp. Dù là tam hay tứ đại đồng đường, người chủ đầu tư dù thứ bậc ông, cha, con hay cháu vẫn đứng ở vị trí quan trọng nhất (vua tôi).
Nói thêm: Theo quan niệm phong thủy truyền thống, chủ dương trạch luôn là người nam được thừa hưởng hoặc tự xây cất căn nhà cư ngụ. Cha mẹ đến ở với con cái là ở nhờ, không coi là chủ dương trạch, vợ và các con, cháu sắp xếp theo trạch chủ. Trường hợp chủ trạch mất, con trai trưởng đã trưởng thành (18 tuổi) sẽ là chủ trạch, chưa trưởng thành (dưới 18 tuổi) người mẹ là chủ trạch. Trường hợp người nữ là độc thân, chồng chết hoặc không có con trai, người nữ là chủ trạch. Chỉ xác định đông hoặc tây tứ theo chủ trạch.

3. Thuật ngữ Tứ Tượng

Quan sát thiên văn trong vũ trụ, các triết gia Đông Phương đã chọn 28 ngôi sao ở gần Hoàng Đạo và Xích Đạo làm chuẩn, từ đó phân ra Đông - Tây - Nam - Bắc, mỗi phương có 7 sao xếp nên các hình tượng Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ, từ đó xác định yếu tố cơ bản của Phong Thuỷ là phương vị.
Thế đất khi lựa chọn cần tuân thủ theo Tứ Tượng nói trên là Long (trái), Hổ (phải), Tước (trước), Vũ (sau). Ấy là quan niệm chọn đất làm nhà hợp với môi trường thiên nhiên: Dựa vào thế cao phía sau nhìn ra khoảng trống sáng sủa phía trước, hai bên trái phải có sông ngòi uốn khúc, đồi núi nhấp nhô.
Quan sát Tứ Tượng là quan trọng nhất cho việc định vị thổ trạch và diện tích căn nhà xây dựng.
Định vị thổ trạch và diện tích xây dựng là xác định mối tương quan giữa nhà và đất thuận lý với trạch mệnh của người chủ cư ngụ. Nếu căn nhà xây dựng trên 1/2 miếng đất phía trước (phía mặt tiền Chu Tước), phong thủy cho rằng căn nhà ấy sẽ lợi ích cho người chủ đầu tư dưới 30 tuổi, cát vượng nhanh chóng, nhưng không bền vững lâu dài. Nếu căn nhà xây dựng trên 1/2 miếng đất phía sau (phía mặt hậu Huyền Vũ), phong thủy cho rằng căn nhà sẽ lợi ích cho người trên 40 tuổi, cát vượng chậm nhưng chắc chắn, bền vững lâu dài và được sức khoẻ, tuổi trời. Tuy nhiên, xây dựng ngôi nhà giữa trung tâm miếng đất được coi là lý tưởng nhất, vì ngôi nhà được thụ hưởng tứ tượng. Trường hợp này sân vườn tiền tước nên rộng gấp đôi sân vườn hậu vũ, chí ít cũng rộng lớn hơn 54cm, giới thủy bên tả Thanh Long nên rộng hơn giới thủy bên hữu Bạch Hổ, chí ít cũng 5,4cm.
4. Thuật ngữ Cát - Hung thủy
Tướng Sơn (nhìn địa hình), Tướng thủy (xem nước) để đánh giá cát - hung của môi trường. Cát thủy là nguồn nước dẫn đến thì phải có nơi đón nhận ở phía trước (thủy nhập đường). Nếu là sông thì phải quanh co uốn khúc mới cát, còn chảy xiết xối, thẳng là hung. Nếu là suối thì phải êm đềm, lắm thác ghềnh thì dựng nhà sao được. Nếu là hồ, đầm thì mặt nước phải phẳng và trong ấy là cát, còn nếu đục ngầu, xói lở thật là bất lợi. Nói chung, nước trong thiên nhiên cần giữ nguyên trạng để bảo tồn nguyên khí, việc san lấp tùy tiện, đào rãnh khơi mương bừa bãi không cân nhắc sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy, xâm hại môi trường khiến trường khí dương trạch bị suy tổn.
5. Thuật ngữ Hung Sơn
Năm dạng địa mạo xấu cần tránh hoặc khắc phục: Đồng (trụi trọc), Đoạn (đứt khúc), Thạch (trơ đá), Quá (vượt ngoài hình thể, mất cân đối), Độc (lẻ loi, đơn côi). Đồng Sơn và Thạch Sơn cây cối làm sao sống, nước làm sao ngưng tụ. Đoạn Sơn, Độc Sơn, nhà nơi đồng không mông quạnh, không xóm giềng liệu sống được chăng? Còn Quá Sơn thì nhịp sinh học của người cư trú bị tán loãng, khiến suy bại nhiều lắm. Các qui hoạch dân cư mới, chưa xử lý hạ tầng theo hướng tích cực: Đường sá, cấp nước, lưới điện, đã xây dựng khu dân cư, là rất hung xấu.
6. Thuật ngữ Tương Hình Thủ Thắng 
Khái niệm chỉ các biện pháp phong thủy tạo sự ổn định và thuận lợi cho dương trạch. Tập trung vào sáu chữ: Bối Sơn - Diện Thủy - Hướng Dương có nghĩa là dựa lưng vào núi, quay mặt về chỗ có nước, hướng nhà về phía có ánh sáng. Nếu mặt trước hướng Nam đón gió lành, có sông ngòi ao hồ ở chính diện tận dụng được hơi nước và cảnh quan, có núi non và gò đồi ở hậu diện làm chỗ chắn gió lạnh phương Bắc, ấy là đắc cách.Nhưng thực tế khó lòng tìm kiếm được miếng đất như vậy, nên tương hình thủ thắng chính là nương theo điều kiện sẵn có,dựa vào thiên nhiên mà điều chỉnh dương trạch của mình cho phù hợp.
7. Thuật ngữ Hình Pháp
Hình và khí luôn tương ứng nhau, đồng thời cũng tương ứng với chất (vật liệu tạo thành) và sắc (màu sắc, khí sắc). Hình nào thì khí ấy, chất ấy, sắc ấy. Xem hình để luận khí, vọng khí để diễn giải hình thể, luôn tương đối không thể tách rời. Cũng có lúc chỉ thấy hình mà khó đoán khí, đó là ngoại hình lấn át nội khí, cần phải đảm bảo tính xác thực, nếu không hình khí sẽ không song hành. Hình - Chất - Sắc tương ứng nhau theo mối quan hệ ngũ hành tương sinh, tương khắc. Từ mối quan hệ này mà chọn chất và sắc tương quan với hình và khí của con người cũng như dương trạch sao cho hài hòa và thuận lý.
8. Thuật ngữ Bát Phong
Gió của 8 phương hướng mạnh, nhẹ, chính phụ xoay chuyển xung quanh cuộc đất có vai trò quan trọng đối với trường khí dương trạch. Nhà quay về hướng nào hoặc mở cửa mặt nào cũng là đón gió từ hướng đó nhiều nhất. Do đó phải tìm hiểu Hoa Gió để xếp đặt kiến trúc cho phù hợp. Không phải hướng gió thổi mạnh là tốt. Tránh gió xấu (nóng, lạnh, khô) mà đón được gió lành (mát, dịu, mang theo hơi nước) thì môi trường cư ngụ được hưng vượng. Cần lưu ý gió cục bộ (các mặt nước rộng, hẻm hút gió) để bổ sung dương trạch. Các hướng có gió xấu (Đông Bắc, Tây Bắc) có thể trồng cây ngăn bớt. Khi xem xét cuộc đất, việc nhận định gió và nước phù hợp là rất quan trọng. Không phải cứ có gió, có nước là đạt phong thủy. Nếu được phong tàng thủy tụ (gió ẩn, nước tập trung) tức là tạo khí tụ thì đảm bảo cân bằng sinh thái, giữ được nguồn gốc sự sống, nhược bằng gặp gió thổi mạnh và phân tán (phong phiêu) cùng với nước chảy mạnh thoát đi tùy tiện (thủy đãng) thì lại rất kỵ, không thể là cuộc đất dựng nhà cư ngụ tốt được. Thường các vùng Sơn cốc, phong cảnh hùng vĩ, có thác lớn suối sâu, gió lộng bốn bề, thì chỉ là các điểm dừng chân tham quan, nghỉ ngơi trong thời gian ngắn, nếu định cư lâu dài thì chính là chỗ phong phiêu thủy đãng, không hợp với nhịp sinh học của con người, không phải là thổ trạch tốt.
9. Thuật ngữ Tân Chủ 
Phong thủy xưa chỉ hình thế hai núi đối diện nhau như khách (tân), chủ phải nghiêm trang cân đối, nếu chủ khách không nhìn nhau sơn mạch lung tung thế đất khó cát tường. Ngược lại, nếu chủ, khách quá gần, không phân biệt trước sau, trên dưới thì cũng làm cho địa mạch bị kìm hẹp, là hung cách. Trong điều kiện đô thị, tân chủ tương đồng là nên làm nhà trong khu qui hoạch ổn định, tương xứng về chiều cao, hình khối, nhà đối diện nhau thì giữ khoảng cách minh đường thông thoáng, không mở toang của dễ bị xoi mói vào nhau, mà cũng không nên xoay xiên vặn lệch nhiều dễ gây tán khí, hư hại trường khí toàn khu.
10. Thuật ngữ Phò Môn 
Thuật ngữ chỉ sự bảo vệ, giữ gìn cửa nhà, hay cụ thể là giữ gìn phần minh đường phía trước mỗi thổ trạch. Minh đường có thoáng đãng, chu toàn thì mới nghênh đón được cát khí, đồng thời giảm thiểu xung sát. Trước mỗi cửa chính, sân hay tiền sảnh cần tránh để các vật lạ như đá tảng, trụ điện hay độc thụ (cây lẻ loi) án ngữ, che khuất tầm nhìn và cản trở đi lại, nhất là khi chúng bị đối tâm môn (nằm giữa tâm cửa). Phò Môn còn là việc cấu tạo mặt ngoài nhà sao cho cửa không bị tác động xấu của thời tiết làm hư hao hoặc mở ra bị vướng. Tốt nhất là đại môn nên có khoảng giới thủy, lùi lại để tránh trực xung, đồng thời tạo cho minh đường khoảng lùi cần thiết, không nên nhô ra quá gần đường giao thông. Nói thêm về cô phong độc thụ. Nghĩa gốc là một núi (độc sơn) lẻ loi chầu trước huyệt, một thế đất xấu. Về mặt cảnh quan, nếu trước khu đất hay ngôi nhà bị án ngữ bởi vật thể hay chướng ngại: Trụ điện, miệng cống, cây to...đều gây cản trở tầm nhìn, mất mỹ quan và giảm sinh khí. Nếu có độc thụ thì gây cản trở đi lại, độc đạo thì gây hút gió trực xung. Khắc phục các nhược điểm trên bằng cách trồng rào cây cản gió hoặc xây tường lửng làm bình phong, nếu có trồng cây trước cửa thì nên bố cục hài hòa, trồng cây theo nhóm cao thấp tương quan hoặc đăng đối hai bên, tránh trồng một cây đơn độc chính giữa.
11. Thuật ngữ Thập Nhị Trượng Pháp
Là các giải pháp căn cứ theo quan điểm tổ chức cảnh quan để chọn lựa các cuộc đất hài hòa phong thủy. 12 trượng pháp gồm: Thuận, nghịch, xúc (co lại), xuyết (tô điểm), khai, xuyên, ly (rời), một (mất đi), đối, tiết (cắt đứt), phạm và đôn. Trong đó quan trọng hơn cả là thuận trượng (nương theo địa hình, tận dụng cảnh quan để chọn cuộc đất). Thuận trượng cũng có thể kèm theo nghịch trượng (tìm kiếm các hạn chế, dùng tương phản để tạo nổi bật). Thuận trượng đúng là đón nhận lai mạch của bản sơn (cuộc đất chủ thể) để sắp xếp không gian cảnh quan, định trung cung và long cục thủy khẩu.
Vài ví dụ:
+ Đôn trượng, thủ pháp chính là đắp thêm nền để tạo sự thay đổi độ cao, bình sàn xây dựng và bài thủy tốt hơn. Đôn trượng phải bắt đầu từ việc xác định cao độ vốn có của thổ trạch và hướng bài thủy thuận (thoát nước). Nguyên tắc truyền thống của phong thủy cao độ phía sau phải cao hơn cao độ phía trước, Minh đường tiền trạch cần thoai thoải thoáng đãng, còn hậu chẩm (phía sau) có thể bả sơn tựa núi là thế chủ tọa vững chắc, phát triển lâu bền về sau. Tại các vùng đất  thấp trũng, đôn trượng là thủ pháp rất hữu hiệu để được một thổ trạch ổn định và cao ráo, tránh được ngập trũng, úng thủy cũng như những tác động xấu từ môi trường đem lại.
Khai trượng, là giải pháp phức tạp nhất, lấy trọng tâm ở việc tránh trực xung. Quyết yếu là đường khí không được đi thẳng vào trung tâm, phải để cho đường khí chạy theo hai bên mà vào. Trong chọn huyệt vị cho thổ trạch, có long mạch chầu về mà quá gấp, quá thẳng, chĩa vào trung tâm cuộc đất tức là trực xung, bất lợi. Nên chia tách trường khí, chuyển sang hai bên rồi mới vòng lại theo cách khí vận khúc tắc (uốn lượn) thì tất giảm được trực xung mà tàng phong tụ khí được nhiều.
12. Thuật ngừ Trung Cung 

Mỗi nhà hay căn phòng đều có một khu vực hoặc một điểm trung tâm gọi là trung cung. Từ trung cung (các hệ trục ngang, dọc, chéo) và phương hướng của ngôi nhà cũng như các bố trí xung quanh nó được thiết lập. Tùy điều kiện thực tế, có thể định vị Trung Cung của toàn nhà hay từng phòng riêng. Định trung cung toàn nhà để có cái nhìn tổng quát, từ đó phân các khu chức năng: Bếp, phòng khách, ngủ, vệ sinh. Định vị trung cung từng phòng là để tiếp cận chi tiết và đề ra giải pháp cụ thể. Tại trung cung của nhà không nên đặt các khu vệ sinh, kho chứa đồ vì sẽ ảnh hưởng không tốt đến trường khí toàn nhà.
Trên Bát Quái hậu thiên,trung cung giữ vị trí số 5.
Mồng năm (5) mười bốn (14) hai ba (23), đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn. Câu ca dao này đánh giá vai trò số 5 (1+4=5 và 2+3=5) quan trọng biết là ngần nào. Số 5 nơi trung cung là con số giữ vai trò cân bằng các hệ trục ngang, dọc, chéo của ma trận tam phương (xem phần Bát quái đồ), giữ vai trò chủ đạo trong việc kích hoạt nhập thế và xuất thế cho dương trạch.

13. Thuật ngữ Trần Thiết Dương Trạch

Tướng địa (chọn đất) và trần thiết (trang trí nội thất) là một thể thống nhất của phong thủy. Các nguyên tắc cơ bản của trần thiết dù biến thiên qua thời gian, song vẫn luôn thống nhất. Từ việc đặt bài vị (bàn thờ) không được nhìn vào khu vệ sinh (uế khí xâm phạm) đến cách bố trí cầu thang tránh đi trên chỗ giường ngủ hoặc chỗ làm việc vì gây bụi và va chạm. Phong thủy hướng các chọn lựa an toàn, ổn định và vệ sinh. Những chi tiết nhỏ như: Giường ngủ không được đặt gương soi đối diện vì tránh luồng hung khí phản chiếu, gây ảo giác cho người nằm ngủ hoặc dầm, xà băng ngang đầu người sinh hoạt bên dưới dễ là nơi bám bụi và khó chiếu sáng...Chính là các nguyện tắc cơ bản khá thiết thực khi bố trí nội thất và xếp đặt không gian.

14. Thuật ngữ Thủy Dụng

Khái niệm chỉ việc sử dụng nước trong dương trạch sao cho hợp lý, hài hoà. Những khu vực sử dụng nước nhiều như phòng tắm, sàn nước...phải lưu ý bài thủy thông suốt, lưu ý tới vấn đề thủy luân, tránh tù hãm hoặc nước tĩnh, nước không chảy tức là không tạo được dòng sinh khí, nhưng nước chảy mạnh quá, không tương đồng với nhịp sinh học của người cư ngụ thì cũng gây ra tán khí. Chú ý trong dương trạch phải vừa có tụ diện thủy (nước trên mặt thao kiểu hồ cảnh) vừa đảm bảo duyên trữ thủy (nước sạch dự trữ trong nhà) thì mới đảm bảo vừa có trường khí sinh động bên cạnh nguồn nước dùng cho sinh hoạt lâu dài và ổn định. Ngoài ra, thủy dụng còn bao hàm ý nghĩa xuất thế trong việc Vọng nước cầu Long.

15. Thuật ngữ Khiêm Trạch

Ngôi nhà tuân thủ theo quẻ Khiêm (Địa/Sơn Khiêm) bao hàm ý nghĩa sâu xa về sự cân đối, hài hòa, vừa phải. Công trình càng lớn, càng đổ nhiều tiền của thì càng phải tính sao cho khiêm tốn, dùng tiền đúng chỗ đem lại hiệu quả. Cùng là điều kiện tự nhiên như mưa, nắng, ẩm, gió, song hành với những hoạt động hàng ngày của con người như thân nhiệt, hơi thở cho đến phân rác hay các quan hệ xã hội, láng giềng đều có thể trở thành phúc hay họa. Xây nhà cửa mà tận dụng được những yếu tố bên ngoài thì là hợp với đạo khiêm. Khiêm trạch đối lập với phô trương chứ không đồng nghĩa với thấp bé hay thiếu thốn. Không phải cứ mờ nhạt hay khép nép là khiêm, mà khiêm trước hết cái gì lớn thì lớn, cái gì nhỏ thì cần nhỏ, hình thức tương xứng với nội dung, không làm cho cái vẻ bên ngoài nhiều hơn cái thực có bên trong. Cân bằng âm dương, tĩnh động tương sinh ngũ hành chính là hướng tới khiêm trạch vững bền.
Trên đây chỉ là 15 trong vô số các thuật ngữ kinh điển của phong thủy truyền thống. Nên coi 15 thuật ngữ này là luận thuyết căn bản để học biết, để kế thừa, vận dụng trường hợp có thể, để thụ hưởng lợi ích cho căn nhà cư ngụ. Dương trạch xây dựng mới hay đã cư ngụ đều có thể ứng dụng. Với xây dựng mới, chỉ sau khi làm quen và xác định được những khái niệm trên mới nên nhờ kiến trúc sư hoặc kỹ sư xây dựng tiến hành thiết kế và xây dựng. Với dương trạch đã ngụ, có thể tu sửa các khiếm khuyết, khắc phục những có thể trong khả năng có thể, điều đó chỉ khiến căn nhà cư ngụ cát vượng hơn.
Kế thừa, vận dụng tinh thông 15 thuật ngữ kinh điển này có thể coi là đủ kiến thức ứng dụng phong thủy truyền thống. các thuật ngữ khác, biết thêm cũng tốt, tuy nhiên không cần thiết, bởi không nên để các thuật ngữ bí hiểm đưa ta vào ma trận phong thủy bí hiểm, mà thực ra phong thủy chỉ đơn giản là phong thủy như đã trình bầy ở Chương Đề dẫn.

/ Mời đọc tiếp chưởng Bốn PTUD/

Nguyễn Nguyên Bảy



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét