Trích sách TÌNH THƠ BẠN THƠ 1/ Nguyễn Văn Hòa
30. NGUYỄN LÃM THẮNG
Sau khi học xong ĐHSP Huế, Nguyễn
Lãm Thắng đã từng làm nhiều nghề để kiếm sống, sau đó anh mới về giảng dạy.
Chính thời gian anh lăn lộn trong Nam ngoài Bắc để kiếm sống ấy nó đã trở thành
vốn sống, vốn kinh nghiệm, thành nguồn cảm xúc, đem đến cho thơ anh một giọng
điệu khác lạ, tạo ra một nét phong cách riêng không thể lẫn lộn với bất cứ một
nhà thơ nào. Ngay
trong chính hành trình thơ của anh cũng có sự chuyển biến, chuyển biến gần như
là đối lập. Nếu ở tập thơ đầu tay Điệp
ngữ tình (NXB Hội Nhà văn, 2007) những
bài thơ mộc mạc, giản dị, da diết về tình yêu và sự sống thì đến những bài thơ
anh sáng tác gần đây nó không còn đằm thắm như thế nữa. Ngôn từ giờ đây đã có sự
“nổi loạn”- câu thơ ngắn, dài, liền mạch, đứt quãng tạo nên những khoảng
lặng, khoảng trống; đôi lúc gây khó hiểu cho người tiếp nhận. Nhưng chính điều
này đã tạo nên phong cách và hồn thơ Nguyễn Lãm Thắng, một hồn thơ đau đáu nỗi
niềm, một sự ám ảnh của cuộc sống nhân sinh. Tất cả mọi khía cạnh của đời sống
xã hội được đưa vào thơ anh ngồn ngộn, dạt dào tuôn chảy theo dòng cảm xúc của
một con người có một lối sống nội tâm độc đáo.
Đối diện với anh, nói chuyện với
anh ta bắt gặp một con người hiền lành, một đôi mắt buồn với cái nhìn xa xăm.
Nhưng bao giờ anh cũng nở một nụ cười phúc hậu. Có thể nói ẩn đằng sau nụ cười ấy,
đôi mắt ấy là những suy tư, trăn trở, dằn vặt, có cả sự đau đớn của một công
dân sống hết mình vì cái đẹp, cái thiện, cái cao cả của cuộc sống này.
Bằng cách sử dụng từ ngữ, tứ thơ và
những nét mới trong thơ anh, Nguyễn Lãm Thắng đã tạo được một nét dị biệt và có
phần ngông. Nói như Hoàng Thuỵ Anh: “Nguyễn Lãm Thắng ngông để bộc lộ cái
tôi của mình, một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tột cùng trước những thực trạng
xã hội, song anh không đánh mất chính mình”.
Với đôi mắt nhạy cảm của người nghệ
sĩ anh nhìn cuộc sống này ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh những cái tốt đẹp
người ta vẫn ca tụng hằng ngày anh còn nhận ra những cái xấu, những mặt trái, sự
oái ăm, nghịch lý của cuộc đời. Nhìn
cuộc sống ở trần thế này chưa đủ anh đã tự đưa mình vào thế giới cõi âm để nhìn
nhận cho toàn vẹn, đủ đầy những tiêu cực, hạn chế, yếu kém, bất công… của cuộc
sống thực tại.
Vì vậy, hình ảnh cái chết, bia mộ,
lăng tẩm được nói đến nhiều trong thơ anh cũng có nguồn cội sâu xa của nó. Đúng
như Jakobson nói: “Thơ là sự trở lại hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc… thơ là sự
trùng điệp liên tục, điệp trùng gây day dứt, khắc khoải đến đau đớn, nhức nhối
hoặc gợi những giấc mơ xa”.
Anh nói đến cái chết, sẵn sàng chuẩn
bị đón nhận nó không phải là anh lẩn tránh, lo sợ, trốn chạy nó mà theo anh đó
là cách tốt nhất để giữ cho tâm hồn không bị hoen rỉ, bào mòn, biến chất trước
cuộc sống đầy những biến động, bon chen, cám dỗ và đầy những cạm bẫy!
Tôi biết tiết kiệm những nỗi
đau của mình
để biến nó thành những quả đồi
mang hình nấm mộ
chôn những linh hồn vất vưởng
(Tiết
kiệm)
Khi lòng người bị nhiễm mặn/ niềm
tin bị xâm thực, anh đau xót thốt lên: tôi sợ những
chuỗi ngày mệt mỏi thừa thải vô tích sự cứ trôi qua như xác chết khổng lồ/ giẫm
lên đời tôi (Thêm một ngày kết tủa).
Những sự thật hết sức nghiệt ngã của
cuộc sống này đã được nhà thơ phản ánh một cách khá sinh động trên nhiều phương
diện, khía cạnh, sự việc. Đó có thể chỉ đơn giản là: một tiếng
khóc trên đồng, một dòng sông, một góc phố, những linh hồn trôi, trái tim mùa
cũ, trong cơn mưa vội, bài hát buồn của bầy chim tổ rách, lời ru của người cha
trẻ, chuyển động của thời gian, những oan hồn hoá đá, bi kịch, trước biển, một
chiều nghĩa trang, cỏ mọc thành giếng cũ, một chiều nắng xế miền Trung, có thể
nói nhiều về cái không thể nói, thấy lạnh trong hồn…
Tất cả đều đi vào thơ anh như là sự
giãi bày những cảm xúc, những nỗi lòng, những tâm sự; có lúc đó là những lời độc
thoại với chính mình như một sự chiêm nghiệm, suy ngẫm, soi xét…
Chỉ ra được như vậy theo tôi đó là
một điều rất đáng quý, đáng trân trọng, chỉ ra rõ như thế để chúng ta biết cách
mà sửa chữa. Và sửa để mục đích nhằm thanh lọc, loại bỏ, hạn chế, khắc phục cái
xấu, cái sai, cái nhược điểm… làm cho cuộc sống ngày càng tiến bộ hơn, ý nghĩa
hơn, đáng sống hơn.
Dẫu biết rằng, việc anh nói chân
xác, thực quá, có lúc gọi đích danh sự việc… Có người sẽ cho anh là thế này thế
nọ. Điều này cũng dễ hiểu vì văn chương vốn dĩ muôn đời là thế, nó phải chịu sự
phán xét của bạn đọc, của xã hội, của sự khen chê, những lời ca ngợi hay những
quy kết… Nhưng chúng ta tin chắc rằng anh không hề dựng chuyện, tô vẽ
thêm mà đó là những sự việc có thật được anh phản ánh bằng thơ.
Chẳng hạn trong bài Khi lũ
trẻ lớn lên:
chúng không biết màu xanh của
mùa xuân khát vọng
nhưng chúng biết màu xanh của
những hình xăm trên ngực trên lưng trên
đùi trên rốn trên mông
chúng không biết khúc tấu ca
mùa hè của loài ve ngàn dặm
nhưng chúng biết những nhạc
khúc yểu mệnh cùng với ca từ sáo rỗng
nhạt phèo như nước ốc
chúng không biết lá mùa thu
vàng hay đỏ
nhưng chúng biết tóc vàng lốm đốm
mắt xanh môi đỏ hợm người
chúng không biết ruộng đồng
ngày mưa tháng nắng ướt dầm mưa đông gió
rét
nhưng chúng biết say sưa trên
cánh đồng web để cày xới game online chát
chít sex và “yêu”
………………….
rồi chúng lớn lên
mơ hồ những địa danh lịch sử
mơ hồ nguồn cội Rồng Tiên
mơ hồ chính mình
mơ hồ trong từng hơi thở
bởi sự thật tìm đâu trong lớp lớp
mơ hồ?
Bài thơ phác hoạ rõ nét những thực
tế hết sức đáng buồn của một bộ phận thế hệ trẻ hôm nay - những người được coi
là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng rường cột của nước nhà. Chính
họ có đủ mọi điều kiện để học tập, trau dồi tri thức, làm được nhiều việc có
ích khi đang thừa hưởng mọi điều tốt đẹp. Ấy vậy mà họ đã đánh mất đi nhiều
thứ, những điều căn bản cần phải có thì họ lại không quan tâm. Ngược lại họ chú
ý đến cách ăn chơi đua đòi, xăm mình, nhuộm tóc, học đòi những kẻ côn đồ, đầu
đường xó chợ… Chúng có biết đâu nỗi vất vả cơ cực của bố mẹ ông bà? Chúng đã
đánh mất đi cái gọi là bản sắc, là truyền thống, là cốt cách, tinh hoa của dân
tộc… Chúng yêu đương theo kiểu mì ăn liền, sống gấp, sống vội và chúng chỉ biết
sống để hưởng thụ, sống ngày hôm nay mà không cần biết cho ngày mai! Đau xót biết
nhường nào, khi:
khi lũ trẻ lớn lên không thèm
biết hai từ đất nước
chúng chỉ biết tìm cái nghề
trong cái nghĩa làm thuê
bởi bằng cấp cũng chỉ là món
hàng đem ra chợ bán
Đất nước hai tiếng ấy
nó thiêng liêng làm sao! Ông cha ta mấy nghìn năm nay đã đổ biết bao máu xương
cũng vì nó. Vì lòng tự tôn, vì ý thức giống nòi, vì mình là con Rồng cháu Lạc
phải sống đúng với lương tâm và trách nhiệm. Ấy vậy mà một bộ phận thanh thiếu
niên vì đua đòi ăn chơi lêu lổng nên bỏ học giữa chừng, thiếu sự quản lý của
gia đình, nhà trường và xã hội dẫn đến hậu quả là làm nhiều việc phạm pháp như:
cướp giật, đâm chém, nghiện ngập và rất nhiều vụ vi phạm pháp luật đau lòng
khác xảy ra. Số thanh thiếu
niên phạm tội ngày càng gia tăng. Đó là nỗi đau đấy chứ, gánh nặng đấy chứ?
Một sự thật nghiệt ngã nữa đó là việc
chạy chức, chạy quyền, mua bằng cấp đã và đang diễn ra. Bằng cấp giống như một
món hàng rao bán chợ, bằng Đại học, thậm chí bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ cũng được
bán!
Một bộ phận nhỏ cán bộ vì nhiều lý
do cũng tranh thủ kiếm cho mình một cái bằng cho nó “oách” nhằm phòng thân. Có
vị đang giữ cương vị chủ chốt ở một vài cơ quan, đơn vị chưa có bằng THPT nhưng
đã có đến mấy bằng Đại học. Có vị chưa học một ngày, một giờ nào ở trường vẫn
có bằng Tiến sĩ. Một số Tiến sĩ giấy ở nước ta như báo chí đã đưa tin là một
minh chứng.
Nguyễn Lãm Thắng đã có sự liên tưởng
khá thú vị trong Thí điểm hay trò chơi từ chuyện những tin nhắn
điện thoại tác giả đặt ra nhiều vấn đề lớn cần suy ngẫm về sự thay đổi xoành xoạch
của nền giáo dục nước nhà.
Vẫn còn đó bệnh thành tích, một căn
bệnh mãn tính đã và đang diễn ra ở mọi cấp, mọi ngành và để lại những hậu quả
khôn lường…
Những cơn đại hồng thuỷ đã cướp đi
rất nhiều mạng người hằng năm, những cơn lũ bất chợt từ thượng nguồn đổ về, cảnh
tang tóc đau thương, mất đi nhà cửa người thân, người còn may mắn sống sót phải
cố bám trụ để mà sống. Thậm chí có những cơn đại hồng thuỷ đi qua, có nơi bị
xoá sạch…
Cơn hồng thuỷ dồn lên cổ họng
mặt đất tắt thở
những con sông đồng loã
cấu kết dìm kiếp sống
những mảnh đời sâu đo
Ngọ nguậy trong biển lũ quét
và
quét chỉ còn lại vạt đất trống
không người
(Những con sông cướp máu phố phường làng xóm)
Vì sao vậy? Rừng thượng nguồn giờ bị
tàn phá dữ dội, rừng giờ đã có chủ, người ta đã chặt phá, đốt sạch rừng nguyên
sinh để thay vào đó là việc “trồng cây gây rừng?” Nhà thơ gọi đó là:
Sự lẫn lộn thật khổng lồ
giữa đốt rừng
và trồng rừng
……………………
núi rừng là của chung cho mọi
người dân
là nơi kiếm củi, làm rẫy, hái
sim, và chôn người thân…
mà bây giờ
núi rừng quê tôi đã có (thẻ đỏ)
dễ hiểu hơn là đã có chủ
(Rừng ơi ta khóc cho rừng)
Tận trong sâu thẳm tâm hồn, trái
tim một con người sống thành tâm anh thảng thốt:
Ta tập mở mắt lần nữa để nhìn
thế giới phía giác độ người mù
để thấy đằng sau câu chúc tụng
là vết đâm tứa máu
để thấy từng miếng thời gian
gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa
để thấy trong sự hoài nghi
trong từng nụ hôn
vài ba giọt rượu lăn lóc trên bầu
vú căng phồng sữa độc
ngày kéo dài hơn những vở tường
phù phiếm
đêm hoang mang hơn những huyền
thoại đen như máu ứ
trục đất đang nóng dần trong
tim ta
máu đang bùng lên ngọn lửa
(Máu
đang bùng lên ngọn lửa)
Ta cũng bắt gặp một sự thật, một sự
thật quá ư đáng buồn, nói ra đến phát khóc trong Cuối
năm và cảm giác tồn vong của lão Q
………………………
năm ngoái/ vào dịp tết/ có tiền
cứu trợ cho những hộ nghèo đói/ thằng con trai lên xã từ 7 giờ sáng/ trưa quên
ăn/ chờ mãi đến chiều/ nghe nói đoàn còn bận phát chẩn ở hai xã khác chưa về/
người nghèo đứng chờ chật cả sân uỷ ban xã/ khói thuốc bay lòng vòng ngột ngạt
bao vây kiếp nghèo phận khổ/ rồi 8 giờ tối đoàn mới về/ mấy ông cán bộ còn nạt
nộ la lối om sòm/ thôi cứ giả điếc giả câm giả lơ cho qua chuyện/ tội nghiệp
đôi dòng nước mắt/ cứ rỉ ra từ hai con mắt đỏ hoe/ đêm nớ có người thức tới 2
giờ sáng mới về đến nhà/ nhận được đồng tiền cũng chảy máu con mắt/ tưởng rứa
là êm chuyện/ ngờ đâu/ về nhà/ còn bị mấy chú cán bộ thôn (làng văn hoá) chặt bớt
một nửa/ các chú còn doạ/ nếu không “tự nguyện” (chia sẻ) sẽ bị xoá tên khỏi
danh sách người nghèo/ đành ngậm đắng nuốt cay mà chấp nhận/ dù chi nghèo cũng
đã nghèo rồi/ âu cũng là của bổng trời cho…
Có lẽ chúng ta không cần bàn luận
nhiều, những gì đã nói trong bài thơ đã rõ. Đau xót quá! Tủi nhục quá! Vẫn là
chuyện miếng ăn, vẫn là cảnh đói nghèo thê thảm, vẫn là chuyện cán bộ ăn chặn của
dân! Thiết nghĩ, những anh cán bộ như thế có còn là đầy tớ của nhân dân hay
nhân dân là đầy tớ? Cán bộ mà đan tâm làm được những việc nhơ nhuốc đó thì
làm sao dân tin? Hoá ra chính những việc làm bậy bạ, chính thái độ coi thường
nhân dân, coi thường pháp luật, họ đã tự đánh mất danh dự và nhân phẩm chính
mình.
Ai đã từng đi qua phố chắc chắn sẽ
nhìn thấy những hình ảnh mà nhà thơ vẽ nên trong bài Góc phố.
Dù rằng có lúc người qua đường sẽ cảm thấy quen thuộc với những hình ảnh, những
âm thanh, việc làm ấy! Nhưng với những người có tâm hồn nhạy cảm, những người
có trách nhiệm, họ sẽ nghĩ suy gì?
Những hình ảnh được phản ánh, được
ghi lại trong bài thơ có phải là xã hội thực sự văn minh không? Những câu hỏi lớn
đang đặt ra cho nhiều cấp, nhiều ngành, cho ý thức trách nhiệm của từng công dân
trước yêu cầu của thời đại.
Đến bài Những
câu hỏi thầm trong quán nhậu
Bao nhiêu tiếng hô một
hai ba zô zô zô!
bao nhiêu tiếng cười tràn
trề gác quán bao nhiêu
em gái xinh đẹp hở
ngực hở rốn bao nhiêu
lời nịnh lời khen lời
chê sau lưng bao nhiêu
cái bắt tay hờ…
và bao nhiêu tờ hoá đơn đỏ?
Cũng là một sự thật 100%, nó đang
diễn ra hàng ngày hàng giờ quanh ta đây thôi, dù rằng ai cũng biết nhưng lâu rồi
cũng trở thành bình thường? Một sự bình thường nhưng lại nhức nhối! bởi đằng
sau những cuộc nhậu, cuộc chơi vô tội vạ ấy, những tờ hoá đơn đỏ ấy chính là những
sự giả dối, lọc lừa, một cuộc sống đầy những phù phiếm, lố lăng, hoang hoác, hỗn
tạp, xô bồ… Họ có biết đâu rằng vẫn còn đó biết bao người dân, bao mảnh đời phải
sống trong đói nghèo, vật vã, đau thương?
Trước sự biến đổi thế cuộc, những
gì là ký ức là kỷ niệm đẹp một thời giờ nó đã trở thành dĩ vãng xa xôi, khó mà
tìm lại được. Trong số những ký ức ấy, nhà thơ đau đáu nuối tiếc cho làng xưa của
mình: nơi có luỹ tre xanh, có mái đình cổ kính, vòm nâu mái ngói, thờ Thành
hoàng làng oai linh lẫm liệt, rất thiêng liêng, nghi ngút khói hương trong những
ngày tế lễ xuân thu… Tất cả những điều ấy đã ăn sâu vào máu thịt, vào tiềm thức.
Ấy vậy mà:
Qua gió bụi thời gian/ nghẹn
ngào dâu bể/ làng mất tên/ đình chùa tiêu thổ/ những mả đống gò mồ nghĩa địa…
còng lưng vào núi xa/ leo lên mấy đồi mấy dốc/ bia gãy đứt làm đôi/ ma lên ngủ
trên đồi/ huyệt mộ nhường cho ngô lúa/ chết rồi hồn phách không yên/ nhường nhà
mồ cho dự án quy hoạch cư dân/ cho ruộng đồng cải tạo/ rồi làng không còn làng/
dẫu tên gọi mới là làng – văn - hoá…
(Ký hoạ làng)
Bên cạnh việc nói đến những hiện thực
của đời sống Nguyễn Lãm Thắng còn vẽ lại bức chân dung tự hoạ về mình, về người
thân với những gian truân vất vả, khổ đau, buồn vui lẫn lộn và quá khứ đau
thương, bi thảm của những năm tháng còn trong khói lửa chiến tranh. Đó là nỗi
đau của người cha mù không thấy mặt con ngay lúc chào đời, rồi những năm tháng
tuổi thơ của tác giả sống trong nhọc nhằn, tủi cực và đói khát, sự ra đi không
bao giờ trở lại của người của những người ruột thịt…
Để rồi từng cơn đau thắt ruột lại đến
với anh, đã
dắt anh vào những giấc ngủ ma/ những giấc ngủ chập chờn nửa mơ nửa thực/ gặp lại
người anh ruột/ chết đã mười ba năm vì tai nạn giao thông ở Gò Vấp/ anh gặp lại
người em chết đói năm 1977 không gặp mẹ lần cuối cùng/ khi mẹ về Đà Nẵng kiếm từng
manh áo rách, bo bo/ anh gặp lại người cha già thương phế hơn 35 năm viết câu
thơ lành lặn… (Từng cơn đau thắt ruột).
Vốn là một con người giàu lòng trắc
ẩn Nguyễn Lãm Thắng chợt nhận ra mình còn nhiều điều dang dở chưa thực hiện được
khi tuổi đời đã gần 40!
…………….
gần bốn mươi năm
chưa trọn một giấc mơ
tự xé mình ra
hai mươi năm mất ngủ
từng ngón tay dắt mình vào nấm
mộ
những huyền thoại cuộc đời bóp
nghẹt trái tim đau!
gần bốn mươi năm
râu tóc trẽn trơ màu
ngờ nghệch phố
lều bều bao nẻo chợ
giọng ly quê
nôm nồm lơ lớ
……………….
băm sáu tuổi đầu
len lén ghé tai nghe
khuya xao xác dăm tiếng gà gáy
muộn
và len lén nhìn mây trời gãy vụn
thực thực hư hư ảo ảo huyền huyền
……………….
Rồi còn biết bao nhiêu sự thật nghiệt
ngã khác của đời sống này được Nguyễn Lãm Thắng viết thành thơ. Ở đây trong
khuôn khổ bài này người viết chỉ lấy một vài dẫn chứng minh họa mà thôi.
Nhìn chung, những bài thơ anh sáng
tác ở giai đoạn sau này hầu như bài nào cũng đề cập đến những mảng hiện thực của
cuộc sống đương đại, có sự liên hệ, kết nối giữa quá khứ - hiện tại và tương
lai.
Nguyễn Lãm Thắng mổ xẻ nó dưới tư
cách là người chứng kiến, nhìn thấy, cảm nhận, đau xót, cảm thông… nhiều khi
anh ghê tởm và nguyền rủa nó. Chính những mảng tối đó nó ám ảnh anh, ám ảnh thơ
anh, tâm hồn anh. Phan Ngọc đã rất có lý khi ông cho rằng: “Văn xuôi
là tiếng nói của công việc, thơ là tiếng nói của thân phận con người”. Thơ
Nguyễn Lãm Thắng đúng là tiếng nói của thân phận con người. Giữa cõi đời mênh
mông, nhiều lúc anh cảm thấy chới với, anh tìm đến cái chết như là sự giải
thoát, một sự giữ gìn tâm hồn, cốt cách, danh dự nhân phẩm theo cách của riêng
anh. Những phận người bé mọn, những sự việc xảy trong cõi nhân sinh này cũng được
anh phản ánh một cách thành thực như chính con tim anh mách bảo. Chúng ta dễ
dàng tìm thấy trong thơ anh tần số lặp lại những từ nói về nỗi buồn, cái chết,
bia mộ, nỗi đau, tiếng khóc, sự sống và cái chết, sự được mất, có - không,
ánh sáng và bóng tối… Do vậy, nhiều bài ngôn từ cũng giản dị, dễ hiểu. Nhưng
cũng có nhiều bài có sự so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú vị; thậm chí có khi
gây sự khó hiểu cho công chúng thưởng thức. Ta có thể liệt kê ra một số nhan đề
bài thơ như thế: Ở
một góc phố câm có cơn mưa điếc, Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng, Tôi nhặt
mình trong góc sân nhà thờ, Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ, Đêm nở ra hoa ấm,
Máu đang bùng lên ngọn lửa, Những khúc sông buồn trong cõi chết, trong bình
minh đã có nhiều chiếc lá xanh rơi rụng, Bài hát buồn của bầy chim tổ rách… “Cùng với nó
là nhiều câu thơ mang hình ảnh siêu thực: trong cuống họng của ánh sáng;
đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như ứ máu; bóng đêm gợn lên thuỷ triều
đen; tiếng hôn nhảy múa lăn tròn trên ngực em; câu thơ mỏng như cánh ve non trần
truồng hơi thở… Câu
chữ thơ anh đứt gãy, bị xô lệch trong những trận ngôn từ chắt lọc, vượt khỏi tầm
kiểm soát của người đọc”(Hoàng Thuỵ Anh).
Hơn bất kỳ
thể loại văn học nào khác, thơ tồn tại tính chủ quan của người nghệ sĩ nhiều nhất.
Và chính cấp độ tầng bậc của các lớp nghĩa, ý nghĩa, tần số xuất hiện các thuộc
tính đã làm nên nét riêng của từng nhà thơ. “Thơ là một cách tổ chức ngôn
ngữ một cách quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy
nghĩ do chính hình thức tổ chức này” (Phan Ngọc). Và chính
điều này đã làm cho thơ Nguyễn Lãm Thắng có nét dị biệt.
Phải là người mẫn cảm và có con mắt
tinh đời như anh mới phát hiện ra những điều bất ổn ấy. Những điều chỉ có một
con người thực sự yêu con người, yêu thương chính đồng loại, quan tâm đến sự sống
này mới có thể nói lên thành thơ tha thiết, day dứt, đau đáu nỗi niềm thế cuộc
và để lại những dư âm trong lòng bạn đọc.
Trích sách Tình Thơ Bạn Thơ 1/
VANDANBNN gt
Trích sách Tình Thơ Bạn Thơ 1/
VANDANBNN gt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét